Bản án về tội trộm cắp tài sản số 174/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 174/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 175/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 166/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Thị V, sinh năm 1979 tại Ninh Thuận Nơi thường trú: Khu phố X, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nơi ở hiện nay: Khu phố Y, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm H (đã chết) và bà Trần Thị X; Có chồng Nguyễn Minh T và có 01 con sinh năm 2000. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

* Bị hại:

1. Bà Ngô Thị Kim C, sinh năm 1977. Nơi cư trú: Khu phố Z, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Bà Trần Thanh Thị Thảo N, sinh năm 1986. Nơi cư trú: Khu phố H, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Thái Ngọc T, sinh năm 1986. Nơi cư trú: Số 24 đường J, khu phố T, phường H, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 01/7/2022 đến ngày 16/7/2023, Phạm Thị V đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn phường M, thành phố P, cụ thể:

Vụ 1: Khoảng 14 giờ ngày 01/7/2022, Phạm Thị V đi bộ một mình đến bàn may sửa quần áo của bà Ngô Thị Kim C (sinh năm 1977, trú tại khu phố Z, phường M, thành phố P) để sửa quần áo thì thấy trên bàn may đồ của bà C có 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A33, màu xanh nước biển nên nảy sinh ý định trộm cắp. Lợi dụng lúc bà C sơ hở trong việc quản lý tài sản, V đã lấy trộm điện thoại trên rồi đem về phòng trọ của mình cất giấu. Đến ngày hôm sau, V sợ bị phát hiện nên đã đem điện thoại vừa trộm được trả lại cho bà C.

Vụ 2: Khoảng 10 giờ ngày 16/7/2023, Phạm Thị V đi bộ đến hàng bán rau của bà Trần Thanh Thị Thảo N (sinh năm 1986, trú tại khu phố H, phường M, thành phố P) tại chợ M, thành phố P để mua rau. Tại đây, V bảo bà N cho mượn điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A04S, màu đen của bà N để kết bạn zalo nói chuyện thì được bà N đồng ý và đưa điện thoại cho V. Sau khi kết bạn zalo xong, V trả lại điện thoại cho bà N, bà N để điện thoại xuống rổ đựng rau gần đó rồi tiếp tục bán hàng. Lúc này, V nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại của bà N để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Lợi dụng lúc bà Ng bán hàng không chú ý, V lấy trộm điện thoại trên bỏ vào trong túi áo khoác của mình rồi đem điện thoại vừa trộm cắp được đến tiệm điện thoại của ông Thái Ngọc T (sinh năm 1986, trú tại thôn Q, xã S, huyện NP, tỉnh Ninh Thuận) trên đường đường J, khu phố T, phường H, thành phố P bán cho ông T với giá 700.000 đồng. Số tiền này, V đã tiêu xài cá nhân hết. Tại Cơ quan điều tra, Phạm Thị V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 72/KL-HĐĐGTS ngày 31/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A33, màu xanh nước biển, có giá trị tại thời điểm bị trộm cắp là 2.745.000 đồng.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A04S, màu đen, có giá trị tại thời điểm bị trộm cắp là 2.345.000 đồng Cáo trạng số: 169/CT – VKSPR ngày 20/10/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố bị cáo Phạm Thị V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Tại Đơn xin xét xử vắng mặt của bị hại Ngô Thị Kim C không có yêu cầu gì về dân sự; Về hình sự: đề nghị xét xử theo quy định pháp luật Tại Đơn xin xét xử vắng mặt của bị hại Trần Thanh Thị Thảo N không có yêu cầu gì về dân sự; Về hình sự: đề nghị xét xử theo quy định pháp luật.

Tại Đơn xin xét xử vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Thái Ngọc T không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 700.000 đồng và không có yêu cầu gì khác.

- Đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang – Tháp Chàm vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm nên không xem xét. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Thái Ngọc T không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 700.000 đồng nên không xem xét.

Buộc bị cáo Phạm Thị V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tung:

[1.1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án xin xét xử vắng mặt; không có ai đề nghị hoãn phiên tòa. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự; Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 01/7/2022 và ngày 16/7/2023, trên địa bàn phường M, thành phố P, Phạm Thị V đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp gồm: 01 điện thoại Samsung Galaxy A33, màu xanh nước biển, có giá trị là 2.745.000 đồng của bà Ngô Thị Kim C; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A04S, màu đen, có giá trị là 2.345.000 đồng của bà Trần Thanh Thị Thảo N. Tổng giá trị tài sản mà V chiếm đoạt là 5.090.000 đồng.

Hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 169/CT – VKSPR ngày 20/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố bị cáo Phạm Thị V là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng do mục đích tư lợi nên vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:

Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã tự nguyện khắc phục một phần hậu quả, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị cáo đã tự thú khai báo lần phạm tội trước; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, h, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[2.4] Mặc dù bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên, tuy nhiên các lần phạm tội của bị cáo đều là tội phạm ít nghiêm trọng. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo thì trường hợp của bị cáo đủ điều kiện cho hưởng án treo. Chiếu theo chính sách khoan hồng nhân đạo của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ và trao trả lại: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A33, màu xanh nước biển cho chủ sở hữu bà Ngô Thị Kim C; 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A04S, màu đen cho chủ sở hữu bà Trần Thanh Thị Thảo N là phù hợp.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

- Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Thái Ngọc T không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 700.000 đồng đã mua điện thoại của bị cáo V nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quá trình điều tra, xác định ông Thái Ngọc T khi mua điện thoại của V, ông T không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có, nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý hình sự đối với ông T là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo Phạm Thị V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, h, r, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị V 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Phạm Thị V cho Ủy ban nhân dân phường M, thành P giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bị cáo Phạm Thị V phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30/11/2023). Bị hại vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án sơ thẩm được tống đạt hợp lệ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 174/2023/HS-ST

Số hiệu:174/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về