TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2024/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Tuấn T (tên gọi khác L), sinh ngày 14 tháng 5 năm 1985 tại tỉnh T; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh T; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị C; vợ, con: không có; tiền án:
- Bản án Hình sự sơ thẩm số 101/2008/STHS ngày 20/11/2008 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Bản án Hình sự sơ thẩm số 04/2012/HSST ngày 13/01/2012 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Bản án Hình sự sơ thẩm số 108/2012/HSST ngày 04/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Bản án Hình sự sơ thẩm số 07/2015/HS-ST ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Bản án Hình sự sơ thẩm số 48/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: không có; nhân thân:
- Quyết định số 92-QĐ/CT ngày 10/11/1997 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời gian 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản;
- Quyết định số 85/QĐ-CT ngày 10/8/2000 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản;
- Bản án Hình sự sơ thẩm số 13/HSST ngày 11/3/2003 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Bản án Hình sự phúc thẩm số 158/PTHS ngày 22/12/2003 của Tòa án nhân dân tỉnh T xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Bản án Hình sự sơ thẩm số 58/HSST ngày 05/7/2005 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
Bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/11/2023 đến ngày 01/12/2023 chuyển sang tạm giam đến nay; có mặt.
- Bị hại:
Chị Nguyễn Thị Diễm H, sinh năm 2005, nơi cư trú: Khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh T, vắng mặt.
Chị Nguyễn Thị Kim H1, sinh năm 1996, nơi cư trú: Ấp D, xã H, huyện C, tỉnh T, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ ngày 20/11/2023, Nguyễn Tuấn T đi bộ từ khu vực chợ T để về nhà. Khi đến nhà thuê của bà Võ Thị H2, sinh năm 1969, địa chỉ: Khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh T, T quan sát thấy cửa cuốn phòng khách hạ xuống và mở khoảng 1/3 cửa nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. T trèo qua cổng rào lén lút đi vào nhà thấy bà H2 và người nhà ngủ phía trước cửa, trong phòng khách. T tìm kiếm xung quanh vị trí những người này ngủ nhưng không phát hiện tài sản. Sau đó T đi tiếp vào phòng ngủ thì phát hiện một điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng của chị Nguyễn Thị Kim H1 và một điện thoại di động hiệu Iphone 14Promax màu trắng của chị Nguyễn Thị Diễm H đang sạc để trên nệm. T tháo sạc và lấy hai chiếc điện thoại này bỏ vào túi tuần sau đó đi ra phía trước trèo qua hàng rào ra đường rồi đi bộ về nhà. T gỡ bỏ sim và giữ lại hai chiếc điện thoại này để sử dụng. Ngày 27/11/2023, chị H1 phát hiện T sử dụng tài khoản của mình quay video và đăng tải lên mạng xã hội TikTok nên đã trình báo sự việc. Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Tuấn T thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Kết luận định giá tài sản số 66/KL-HĐĐGTS ngày 28/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh T kết luận:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax màu trắng số Imei 359265387198704 dung lượng 256GB thời điểm định giá ngày 20/11/2023 có giá 20.000.000 đồng.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng số Imei 354850090432196 dung lượng 64GB thời điểm định giá ngày 20/11/2023 có giá 5.000.000 đồng.
Cáo trạng số 07/CT-VKSTB ngày 29 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn T từ 04 (bốn) năm tù đến 05 (năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố, không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo T nói lời sau cùng: bị cáo biết hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Vào khoảng 03 giờ ngày 20/11/2023, tại nhà bà Võ Thị H2, địa chỉ: Khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh T, lợi dụng thời điểm gia đình bà H2 ngủ say, không đóng cửa cuốn phòng khách, Nguyễn Tuấn T có hành vi trèo qua cổng rào vào nhà và lén lút chiếm đoạt hai chiếc điện thoại di động của chị Nguyễn Thị Kim H1, chị Nguyễn Thị Diễm H để trên nệm phòng ngủ. Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện T kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X có giá 25.000.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Tuấn T đã tái phạm, chưa được xóa án tích nhưng lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Do đó Cáo trạng số 07/CT–VKSTB ngày 29/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn T là có căn cứ.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, gây ảnh hưởng xấu an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người thành niên, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình nhưng lười lao động, muốn có tiền sử dụng nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm.
[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố xét xử tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo đầy đủ, đúng sự thật những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội đã thực hiện, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[6] Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị kết án, xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản đã được xóa án tích, hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính nhưng bị cáo không sửa chữa những sai phạm của mình thể hiện ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm.
[7] Hình phạt áp dụng:
[7.1] Hình phạt chính: Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy những lần phạm tội trước, bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng bị cáo không sửa chữa sai phạm; các hình phạt khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm. Căn cứ Điều 38 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội, đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa tội phạm.
[7.2] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Kim H1, chị Nguyễn Thị Diễm H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Tuấn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn T (tên gọi khác L) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn T 05 (năm) năm tù, thời gian chấp hành án phạt tù tính từ ngày 28/11/2023.
2. Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Tuấn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2024/HS-ST
Số hiệu: | 17/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về