Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 27/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27/03/2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh B xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 04/2024/TLST-HS ngày 19/01/2024, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐXXST-HS ngày 26/02/2024; Quyêt định hoãn phiên tòa số 03/2024/QĐ-HPT ngày 18/03/2024 đối với các bị cáo:

1. Lường Kế C, sinh ngày 20/01/1990; Tại Thanh Hóa; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: ấp Thạnh Cường, xã Lộc Thạnh, N, B; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 8/12 ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lái xe; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lường Kế T (Đã chết) và bà Trịnh Thị C; Bị cáo chưa có vợ.

Tiền án: Ngày 16/11/2019, bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 12 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; Ngày 03/12/2021 bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” chấp hành án xong ngày 22/02/2023. Tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 07/3/2011, bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Bị tạm giữ từ ngày 23/9/2023 đến 02/10/2023 tạm giam cho đến nay.

2. Điểu T, sinh ngày 01/01/1993; Tại B; Tên gọi khác: Tích; HKTT: Ấp Bù Dinh, xã Thanh An, huyện Hớn Quản, tỉnh B; Nơi cư trú: ấp Thạnh Bện, xã Lộc Thạnh, huyện N, tỉnh B; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: S’Tiêng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Tin Lành; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Điểu H (đã chết) và bà Thị D (đã chết); Bị cáo chưa có vợ.

Tiền án: Ngày 05/11/2014, bị Tòa án nhân dân huyện N tuyên phạt: 03 năm tù về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, bị cáo chưa hoàn thành nghĩa vụ đóng án phí theo quy định nên chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không Bị tạm giữ từ ngày 23/9/2023 đến ngày 02/10/2023 chuyển tạm giam đến nay.

3. Lường Kế T, sinh ngày 01/9/1982; Tại Thanh Hóa; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: ấp Thạnh Cường, xã Lộc Thạnh, N, B; Nghề nghiệp:làm vườn; Trình độ học vấn: 6/12 ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lường Kế T (Đã chết) và bà Trịnh Thị C; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: không; tiền sự: Không.

Bị tạm giữ từ ngày 24/9/2023 đến ngày 02/10/2023 chuyển tạm giam đến ngày 24/10/2023, thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh.

4. Đào N S, sinh ngày 01/01/1976; Tại Thanh Hóa; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: ấp Thạnh Cường, xã Lộc Thạnh, huyện N, tỉnh B; Nghề nghiệp: làm vườn; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đào Đình L (đã chết) và bà Nguyễn Thị P; Vợ: Lường Thị T, sinh năm: 1978; Bị cáo có 02 người con, lớn sinh năm: 1998, nhỏ sinh năm: 2000; Tiền án: không; Tiền sự: Không.

Bị tạm giữ từ ngày 23/9/2023 đến ngày 02/10/2023 chuyển tạm giam đến ngày 24/10/2023, thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho gia đình bảo lĩnh.Tất cả các bị cao có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: C Ty TNHH thương mại và đầu tư P Địa chỉ: Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Hoa Lư , xã Lộc Hòa, huyện N, tỉnh B.

Người đai diện theo pháp luật: Nguyễn Phi H- Giám đốc (vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 3, ấp Chà Là, xã Thanh Bình, huyện Hớn Quản, tỉnh B.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Thúc Ph, sinh năm 1985 (vắng mặt) Theo văn bản ủy quyền ngày 19/10/2023.

Nơi cư trú: Phường T Thiện, thị xã Đ, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 23/9/2023, Lường Kế C rủ Lường Kế T và Đào N S đi lấy trộm hạt điều tại C Ty TNHH thương mại và đầu tư P (gọi tắt là công ty P). T và S đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số: 92E1 – xxxxx chở C, S điều khiển xe mô tô biển số: 73N3 – xxxxx đi một mình. Khi đến nhà chị H thuộc ấp Thạnh Bên, xã Lộc Thạnh, huyện N thì C nói T cùng S đi trước, còn C vào gặp Điểu T( người làm công cho chị H) để rủ T1 cùng đi lấy trộm hạt điều, T1 đồng ý và điều khiển xe Jupiter (không xác định biển số) chở C, C lấy 40 bao nylon màu đỏ có nền chữ màu xanh đen (ghi chữ Đại Phú) đến khu vực vườn tràm gần kho của C ty P thì gặp T và S đang chờ, T1 giấu xe trong vườn tràm rồi cùng C, T trèo tường rào vào khuôn viên kho C ty P, còn S đứng đợi ngoài tường rào C ty. Khi vào kho của C ty P thì C cầm theo 40 bao nylon đã chuẩn bị trước để đựng hạt điều, 01 bó dây đen để buộc miệng bao, 01 khóa tiếp điếu cữ 8mm để mở ốc vít bắn tôn, T1 đem theo 01 thang gỗ lấy ở vườn tràm. Khi lấy trộm thì C mở bao vải (loại bao bố) đựng hạt điều của công ty P, T1 cầm bao nylon đỏ hứng hạt điều và cột miệng bao lại, cứ 01 bao tải loại vải bố của C ty P thì C và T1 sang ra hai bao nylon màu đỏ đem theo, rồi T1 vác bao nylon màu đỏ chứa hạt điều lấy trộm ra phía ngoài tường cho T vác ra bên ngoài hàng rào để S vác xuống khu vực lề đường đối diện vườn tràm để tập kết lại. Khi nào xong chạy xe lên để chở về đem đi tiêu thụ. Khi T1 và C đã đem được 10 bao nylon màu đỏ chứa hạt điều ra phía ngoài (08 bao nylon màu đỏ đã tập kết tại lề đường, đối diện vườn tràm, 01 bao S đang vác về điểm tập kết, 01 bao T đang vác ra phía ngoài tường rào ), còn 01 bao nylon màu đỏ chứa hạt điều T1 và C đang lấy trộm bên trong kho, chưa kịp buộc miệng bao thì bị Đồn Bên phòng cửa khẩu Quốc tế Hoa Lư phối hợp với C an xã Lộc Hòa và nhân viên C ty P bắt quả tang được T1 và C, còn S và T bỏ chạy thoát. Đồn Bên phòng cửa khẩu Quốc tế Hoa Lư đã chuyển toàn bộ hồ sơ cho Cơ quan CSĐT C an huyện N để xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng và đồ vật thu giữ: 02 bao nylon màu đỏ có nền chữ màu xanh đen (ghi chữ Đại Phú) chứa hạt điều khô, trọng lượng 108 kg; 30 sợi dây buộc màu đen dài 60 cm; 29 bao nylon màu đỏ có nền chữ màu xanh đen (ghi chữ Đại Phú); 04 ốc vặn dài 3,5 cm, 01 ống bằng kim loại hình chữ L, chiều dài 16,3 cm, đường kính 1,2 cm; 01 đoạn cành cây khô, chiều dài 83 cm; 05 bao tải bằng vải có nền chữ màu đen có ghi chữ nước ngoài, 01 bao tải bằng vải bị rách; 01 khẩu trang y tế màu trắng;

01 đôi dép màu cam, mặt dưới dép có chữ C Vinh số 8; 01 thang gỗ chiều dài 02 m, rộng 30 cm; 01 mũ màu đen trắng và 01 ĐTDĐ Nokia màu tím Thu giữ tại hiện trường: 01 thang bằng kim loại kích thước (0,66x0,21x2,86) m; 09 bao nylon màu đỏ có nền chữ màu xanh đen (ghi chữ Đại Phú) chứa hạt điều khô, trọng lượng 435,3 kg; 02 áo mưa (01 áo mưa màu xanh và 01 áo mưa rằn ri).

Quá trình điều tra các bị cáo còn khai nhận vào khoảng 18 giờ ngày 21/9/2023, Lường Kế C đang ở nhà tại ấp Thạnh Cường, xã Lộc Thạnh, huyện N thì nảy sinh ý định đi tìm tài sản sơ hở lấy trộm nên điện thoại cho B ( Bùi Lê Tấn N) để hỏi B có chỗ nào lấy trộm tài sản được không, chỉ cho C đi lấy trộm thì B rủ C đến tối đi trộm tại kho chứa hạt điều khô của C ty P, C đồng ý. Đến khoảng 1 giờ ngày 22/9/2023, C rủ Lường Kế T (anh ruột của C) và điện thoại cho Đào N S (anh rể của C) để rủ S và T cùng lên chở phụ điều cho C thì được T và S đồng ý. Sau đó, C điện thoại cho B và hẹn B đến trước nhà chị Nguyễn Thị H, ấp Thạnh Bên, xã Lộc Thạnh, huyện N để cùng nhau đến kho của C ty P lấy trộm hạt điều. Do không biết chở điều khô ở đâu nên S điều khiển xe mô tô biển số: 73N3 – xxxxx đến nhà C hỏi thì C nói S chở từ rẫy của nhà C đến sân nhà chị H, rồi T điều khiển xe mô tô biển số: 92E1 – xxxxx chở C đi trước, S điều khiển xe theo sau, khi đến trước nhà chị H thì gặp B điều khiển xe mô tô Wave chở Điểu T. Do có hẹn từ trước nên C và T điều khiển xe chạy phía sau B và T1. Khi đến khu vực đường đất đối diện vườn tràm gần C ty P thuộc ấp 7, xã Lộc Hòa, huyện N thì T, S và B giấu xe mô tô trong vườn tràm. Sau đó, C lấy 01 thang gỗ dài 2m, B cầm theo bao nylon, T1 cầm theo chai nước đi đến tường rào của C ty P, trèo tường rào vào trong khuôn viên C ty P, còn T và S thì đứng đợi phía ngoài tường rào. Khi đến kho chứa hạt điều của C ty P thì B dùng khóa 8mm (loại khóa có hình dạng chữ L) nới lỏng và tháo vít bắn tôn nhà kho chứa hạt điều ra, B trèo tường vào bên trong kho và dùng tay đẩy vách tôn ra phía ngoài, C bẻ cành cây chống vách tôn lên, rồi trèo vào trong kho. B và C mở bao tải chứa hạt điều khô ra và sang ra 02 bao nylon màu đỏ do B đem đến để lấy trộm (Cứ 1 bao tải của C ty sang ra 02 bao nylon màu đỏ để lấy trộm) đưa ra phía ngoài cho T1 vận chuyển ra phía ngoài tường rào. Lúc này, T cũng vào khu vực khuôn viên của C ty P để phụ vận chuyển điều ra phía ngoài tường rào cho S vận chuyển đến khu vực đường đối diện vườn tràm nơi B, T và S cất giấu xe. Sau khi lấy được 11 bao nylon màu đỏ chứa hạt điều khô thì B và C nghe tiếng xe ô tô nổ ở sân C ty P nên sơ bị phát hiện, B và C không lấy trộm nữa mà trèo tường ra ngoài kho, lấy khóa 8mm vặn các ốc vít của tấm tôn lại như cũ, rồi C vác thang gỗ ra phía ngoài khuôn viên. Lúc này, S đã vận chuyển 06 bao nylon chứa hạt điều khô lấy trộm về sân nhà chị H tại ấp Thạnh Bên, xã Lộc Thạnh, huyện N rồi về nhà ngủ, còn lại 05 bao nylon do T1 vận chuyển ra bờ tường rào phía ngoài, B sử dụng xe mô tô chở 05 bao nylon chứa hạt điều khô do lấy trộm về sân nhà chị H và lên chở T1 về nhà chị H ngủ, T chở C về nhà ngủ, Đến khoảng 7 giờ ngày 22/9/2023, B đến nhà chị H gặp T1 và đưa T1 2.000.000 đồng, đến nhà C và đưa C 2.100.000 đồng, B nói với T1 và C là tiền do B bán hạt điều trộm cắp có được, C đưa cho S 400.000 đồng. Còn việc B bán số hạt điều trộm cắp được cho ai, bao nhiêu tiền thì C, S, T và T1 không biết Căn cứ bản kết luận định giá số 31/2023/KL-HĐĐGTS ngày 27/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N.

Số lượng hạt điều khô bị mất trộm ngày 23/9/2023 bằng 543,3 kg có giá là:

21.134.370 đồng Căn cứ bản kết luận định giá số 42/2023/KL-HĐĐGTS ngày 19/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N.

Số lượng hạt điều khô bị mất trộm ngày 22/9/2023 bằng 423,5kg có giá là 16.474.150 đồng.

Bản cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 19/01/2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh B truy tố bị cáo Lường Kế C, về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo Điều T1, Lường Kế T và Đào N S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lường Kế C, Điều T1, Lường Kế T và Đào N S phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm b,s khoản 1, Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Xử phạt bị cáo Lường Kế C 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b,s khoản 1,2 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung bổ sung năm 2017.

Xử phạt Điểu T 24 đến 30 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lường Kế T từ 18 đến 21 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 36 đến 42 tháng.

Xử phạt bị cáo Đào N S từ 18 đến 21 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 36 đến 42 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với yêu cầu của C ty P yêu cầu các bị cáo bồi thường số hạt điều bị mất vào ngày 22/9 số tiền 80.000.000đ đề nghị tách ra giải quyết bằng vụ án khác.

Đối với 01 ĐTDĐ Nokia màu hồng thu giữ của Đào N S, 01 ĐTDĐ Nokia màu tím thu giữ của Lường Kế C; 01 xe mô tô có số khung bị mài mòn, số máy: HD1P50FMHYO174092; 01 xe mô tô màu xanh có số khung: RRKWCHOUM7XP23995, số máy: VTTJL1P52FMH – N02399501 đều là công cụ phương tiện phạm tội đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Các bị cáo không tranh luận, không kêu oan.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của cáo trạng, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm nơi xảy ra vụ án và toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, có đủ cơ sở khách quan để xác định:

Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân, C tìm người tên B ( chưa rõ nhân thân) hỏi biết chỗ nào có tài sản chỉ cho C trộm bán lấy tiền tiêu xài.

B đã chỉ cho C đến kho của C ty P, thuộc xã Lộc Hòa, huyện N có tài sản là hạt điều khô, để thực hiện việc trộm cắp, C đã rủ thêm T, Điểu T, S cùng B vào khoảng 01 giờ ngày 22/09/2023 đột nhập vào kho hàng của C ty P lấy trộm được 11 bao hạt điều khô đem về để gần nhà chị H sau đó B đem bán và sáng 22/9/2023 đã chia tiền cho Điểu T 2.000.000 đồng, C: 2.100.000 đồng, C đưa cho S: 400.000 đồng.Tiếp tục đến 01 giờ 00 phút, ngày 23/9/2023, Lường Kế C rủ Lường Kế T và Đào N S và Điểu T đi lấy trộm hạt điều tại C ty P, do phát hiện kho hàng bị mất trộm nên C ty P đã báo cho đồn Bên Phòng Hoa Lư giúp đỡ, quá trình mật phục khi các bị cáo đang trộm hạt điều bộ đội Bên Phòng đồn Hoa Lư đã ập vào bắt được quả tang C và T1 tại hiện trường và thu giữ được toàn bộ số hạt điều các bị cáo vừa trộm đưa ra bên ngoài kho.Theo như kết luận định giá tài sản của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N, số hạt điều các bị cáo trộm vào ngày 22/9/2023 có giá trị bằng 16.474.150 đồng và ngày 23/9/2023 là 21.134.370 đồng.

[3]Hành vi lợi dụng vào ban đêm, khi bảo vệ nhà kho đã ngủ, các bị cáo lén lút đột nhập vào trong kho lấy tài sản đem ra ngoài của các bị cáo mỗi lần trộm đều trên 2.000.000đ nên đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản.

Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố các bị cáo T, T1, S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 bị cáo Lường Kế C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình là hoàn toàn có căn cứ.

Đối với đối tượng tên B mà C xác định là Bùi Lê Tuấn N là người chỉ cho C nơi có tài sản và đã cùng C thực hiện 01 vụ trộm vào ngày 22/9/2023 nhưng qua đấu tranh, N không thừa nhận là người chỉ cho C và trộm cùng với C, N cũng không phải là người đi bán hạt điều để chia tiền cho C, T1. Ngoài lời khai của C ra, thì các bị cáo còn lại đã được cho nhận dạng nhưng không nhận dạng được N có phải là người đi trộm chung vào 22/9/2023 hay không,Cơ quan điều tra C an huyện N đã trưng cầu giám định đoạn Clip do anh Phúc cung cấp hình ảnh của các đối tượng vào kho hàng trộm hạt điều vào ngày 22/9/2023 cùng với 13 tấm ảnh của N nhưng không có căn cứ chứng minh do vậy chưa đủ căn cứ để xử lý Bùi Lê Tấn N.

[4] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đều đã thành niên và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trước khi nảy sinh ý định trộm cắp, C đã rủ T, T1, S và B (chưa xác định được nhân thân) đi trộm và chuẩn bị xe vận chuyển, các bao đựng hạt điều, chìa khóa mở ốc vít để đột nhập vào kho.

Bị cáo C và T1 có vai trò tích cực hơn S và T vì là người trực tiếp vào kho để lấy trộm tài sản, còn T và S chỉ đợi phía bên ngoài khi đưa ra sẽ xếp gọn lại một nơi rồi sau đó đưa về cất giấu.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị tại địa phương, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo là trộm bán lấy tiền tiêu xài.

[5]Đối với Nguyễn Thị H, quá trình điều tra Đào N S khai nhận đem hạt điều khô lấy trộm cất giấu tại sân nhà chị H, nhưng chị H không biết việc cất giấu hạt điều khô tại sân nhà mình và chị H cũng không biết việc Lường Kế C, Điểu T, S và Lường Kế T lấy trộm hạt điều khô của C ty P nên Cơ quan CSĐT C an huyện N không đề cập xử lý.

]6]Xét về nhân thân: Bị cáo C và T1 có nhân thân xấu, C đã 03 lần bị xét xử về tội trộm cắp tài sản, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo với tình tiết định khung quy định tại điểm g khoản 2 Điều 137. Bị cáo Điều T1 ngày 05/11/2014, bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt: 03 năm tù về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”,bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính còn phần án phí và bồi thường bị cáo chưa chấp hành nên tính đến ngày phạm tội lần này thuộc trường hợp chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm Bị cáo S và T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự sau khi phạm tội tất cả các bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo T và S phạm tội trường hợp ít nghiêm trọng, gia đình có hoàn cảnh khó khăn có xác nhận của UBND nơi bị cáo S và T cư trú, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị phát hiện đã bỏ trốn sau đó đã ý thức ra đầu thú giúp cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án. Trong thời gian chờ xét xử, bị cáo S và T đã tự nguyện có đơn xin nộp toàn bộ số tiền bồi thường cho tất cả các bị cáo nên các bị cáo được áp dụng các tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo S, T đầu thú, bị cáo T1 là dân tộc thiểu số nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7]Về tình tiết tăng nặng: Tất cả các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội 2 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52, bị cáo Điểu T chịu tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo C do tình tiết tăng tái phạm nguy hiểm đã được áp dụng tình tiết tăng nặng định khung nên không áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm nguy hiểm cho C.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị Hội đồng xét xử phạt tù có thời hạn đối với Lường Kế C và Điểu T.

Đối với bị cáo Lường Kế T và Đào N S, Viện kiển sát đề nghị cho hưởng án treo. Nhận thấy, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, sau khi phạm tội đã đầu thú và bồi thường thiệt hại cho bị hại, phạm tội thuộc trường hơp ít nghiêm trọng, các bị cáo cũng đã bị tạm giam một thời gian và sau khi được thay đổi biện pháp ngăn chặn chấp hành đúng các quy định. Xét thấy đủ điều kiện để được hưởng án treo nên được hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về vật chứng vụ án:

Đối với số hạt điều bị bắt quả tang vào ngày 23/9/2023 đã được trả lại cho C ty P.

Đối với: 30 sợi buộc màu đen dài 60 cm; 40 bao nylon màu đỏ có nền chữ màu xanh đen (ghi chữ Đại Phú) (29 bao thu giữ khi bắt quả tang và 11 bao nylon sử dụng để đựng hạt điều khô); 01 ống bằng kim loại hình chữ L, chiều dài 16,3 cm, đường kính 1,2 cm; 01 đoạn cành cây khô, chiều dài 83 cm; 01 khẩu trang y tế màu trắng; 01 đôi dép màu cam, mặt dưới dép có chữ C Vinh số 8; 01 mũ màu đen trắng; 01 thang bằng kim loại kích thước (0,66x0,21x2,86) m; 01 thang gỗ chiều dài 02 m, rộng 30 cm; 02 áo mưa (01 áo mưa màu xanh và 01 áo mưa rằn ri) không còn giá trị sử dụng; cần tịch thu tiêu hủy.

01 ĐTDĐ Nokia màu hồng thu giữ của Đào N S, 01 ĐTDĐ Nokia màu tím thu giữ của Lường Kế C sử dụng làm phương tiện liên lạc đi trộm cắp tài sản tịch thu sung ngân sách nhà nước.

Đối với: 01 xe mô tô có số khung bị mài mòn, số máy: HD1P50FMHYO174092 thu giữ của Lường Kế T không xác định được chủ sở hữu, xe không có giấy tờ sử dụng làm phương tiện phạm tội; 01 xe mô tô màu xanh có số khung: RRKWCHOUM7XP23995, số máy: VTTJL1P52FMH – N02399501 thu giữ của Đào N S, không có giấy tờ, S sử dụng làm phương tiện phạm tội tịch thu hóa giá sung nân sách nhà nước.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại là C ty P vắng mặt. Tuy nhiên, quá trình điều tra, người đại diện của C ty là ông Lê Thúc Phyêu cầu các bị cáo phải bồi thường tài sản bị mất vào ngày 22/9/2023 là 40 bao hạt điều với số tiền bằng 80.000.000đ (BL 209,211). Đối với nội dung này, tại tòa các bị cáo chỉ thừa nhận trộm hạt điều của C ty P vào ngày 22/9/2023 là 11 bao không phải 40 bao. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện N cũng chỉ chứng minh được số tài sản hạt điều của C ty P bị mất vào ngày 22/9/2023 là 11 bao trị giá 16.474.150đ.

Trong đó, số tiền thu hồi của C là 1.700.000đ, S nộp lại 400.000đ, bị cáo S và T đã nộp lại số tiền 14.374.150đ ( làm tròn 14.400.000) tại chi cục thi hành án dân sự huyện N xác định là tài sản bị mất của C ty P cần trả cho C ty P.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Lường Kế C, Điều T1, Lường Kế T và Đào N S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm b,s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lường Kế C 03 (ba) năm tù. Thời gian tính tù từ ngày 23/9/2023.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b,s khoản 1,2 Điều 51, điểm h,g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Điểu T 02 (hai) năm tù. Thời gian tính tù từ ngày 23/9/2023 .

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b,s khoản 1,2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Lường Kế T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án.

Xử phạt Đào N S 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo T và S về Ủy ban nhân dân xã Lộc Thạnh, huyện N, tỉnh B giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Tiếp tục tạm giam Lường Kế C, Điểu T 45 ngày tính từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Trách nhiệm dân sự: Áp dụng điểm b khoản 1Điều 46 Bộ luật hình sự:

Các bị cáo Lường Kế C, Điểu T, Lường Kế T, Đào N S liên đới bồi thường cho C ty P số tiền 16.474.150đ. Số tiền trên hiện Chi cục thi hành án dan sự huyện N đang tạm giữ.

Cho cục thi hành án dân sự huyện N chi trả cho công ty P 16.474.150đ sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

4. Về vật chứng của vụ án Áp dụng điểm a, khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu hóa giá sung Ngân sách nhà nước 01 ĐTDĐ Nokia màu hồng, 01 ĐTDĐ Nokia màu tím; 01 xe mô tô có số khung bị mài mòn, số máy: HD1P50FMHYO174092 ; 01 xe mô tô màu xanh có số khung: RRKWCHOUM7XP23995, số máy: VTTJL1P52FMH – N02399501

Tịch thu tiêu hùy 30 sợi buộc màu đen dài 60 cm; 40 bao nylon màu đỏ có (ghi chữ Đại Phú) (29 bao thu giữ khi bắt quả tang và 11 bao nylon sử dụng để đựng hạt điều khô); 01 ống bằng kim loại hình chữ L, chiều dài 16,3 cm, đường kính 1,2 cm; 01 đoạn cành cây khô; 01 khẩu trang y tế màu trắng; 01 đôi dép màu cam; 01 mũ màu đen trắng; 01 thang bằng kim loại kích thước (0,66x0,21x2,86) m; 01 thang gỗ chiều dài 02 m, rộng 30 cm; 02 áo mưa ( Vật chứng đượcmô tả như trong biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 0007044 ngày 23/02/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện N); biên lai thu tiền số 0003013 ngày 22/02/2024.

5. Về án phí:

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Lường Kế C, Điểu T,Lường Kế T, Đào N S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đán phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Bị hại do vắng mặt tại phiên tòa thời gian kháng cáo tính từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2024/HS-ST

Số hiệu:17/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về