Bản án về tội trộm cắp tài sản số 167/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 167/2023/HS-ST NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 19 tháng 12 năm 2023, Tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 153/2023/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 247/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. La Tân M (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 05 tháng 01 năm 1990 tại huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Xóm 09, xã Vĩnh Q, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp: Không nghề; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông: La Văn P (đã chết); Con bà: Triệu Thị C (đã chết); Vợ: La Thị N; Con: có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; Anh chị em ruột: Gia đình có 03 anh chị em, bị can là con thứ 3 trong gia đình; Tiền sự: Không; Tiền án: Có 02 tiền án, ngày 23/6/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt 60 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, ngày 01/8/2017, bị Toà án nhân dân huyện Hoà An xử phạt 30 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 01//9/2017, Toà án nhân dân huyện Hoà An ra quyết định tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành chung 02 bản án là 07 năm 06 tháng tù; Nhân thân: Năm 2015, Công an thành phố Cao Bằng xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Bị cáo bị bắt, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng kể từ ngày 07/8/2023 đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Hoàng Văn X (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 13 tháng 8 năm 1990 tại huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Xóm 08, xã Vĩnh Q, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông: Hoàng Văn K (Đã chết); Con bà: Hoàng Thị L (Đã chết); Vợ: Ngô Thị L; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2019; Anh chị em ruột: Gia đình có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ 8 trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 14/9/2023 đến nay, có mặt tại phiên toà.

- Bị hại:

1. Ông Hứa Văn D  sinh năm 1989, vắng mặt có lý do;

Địa chỉ: Tổ dân phố Hòa N, thị trấn Q, huyện Quảng Hòa, tỉnh Cao Bằng;

2. Ông Thẩm Quý D, sinh năm: 1990, có mặt;

Địa chỉ: Tổ 07, phường G, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng;

3. Bà Nông Thị H, sinh năm: 1986, có mặt;

Địa chỉ: Tổ 03, phường Duyệt Tr, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng;

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Vương Văn T, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Tổ 03, phường X, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, vắng mặt;

2. Bà Triệu Thị T, sinh năm: 1986; Địa chỉ: Tạm trú tại Tổ 03, phường X, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, vắng mặt có lý do;

3. Bà Ngô Thị L, sinh năm: 1988; Địa chỉ: Xóm 8, xã Vĩnh Q, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, có mặt;

4. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm: 1979, vắng mặt có lý do;

Địa chỉ tạm trú: Tổ 03, phường X, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

5. Bà La Thị H, sinh năm: 1985, có mặt;

Địa chỉ: Tổ 20, phường H, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trong khoảng thời gian từ ngày 09/7 đến ngày 07/8/2023, La Tân M (Sinh năm 1990, trú tại xóm 09, xã Vĩnh Q, thành phố Cao Bằng) đã 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô tại khu vực thành phố Cao Bằng, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 09/7/2023 Hoàng Văn X  điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 11B1-xxxxx chở La Tân M  đi uống nước tại khu vực quảng trường thuộc phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng. M nói với X “cần đi tìm 01 chiếc xe mô tô để làm phương tiện đi lại”. X hiểu ý của M là đi tìm xe mô tô để trộm cắp nên đã đồng ý. Khi đến khu vực quảng trường, M phát hiện có 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 11X1-xxxx để cạnh ghế đá phía trước quảng trường. M bảo X dừng xe ở gần đó đợi. M đi bộ đến cạnh chiếc xe mô tô, dùng chùm chìa khóa (gồm 3 chìa) đã chuẩn bị sẵn trước đó mở khóa, nổ máy và điều khiển xe đi về phía cầu Sông Mãng. M điều khiển xe đi trước, X điều khiển xe đi theo sau. Khi đến khu vực gần cầu Sông Mãng cả hai dừng xe, M đưa cho X 200.000đ để đi mua ma tuý. X cầm tiền và điều khiển xe quay ngược lại khu vực Bến xe cũ thuộc phường Sông Bằng, thành phố Cao Bằng mua với một người đàn ông (không quen biết, trông giống người nghiện) 01 gói Heroine với giá 200.000đ rồi điều khiển xe đến nhà M và cùng nhau sử dụng gói Heroine bằng hình thức chích vào cơ thể, sau đó X đi về nhà. Ngày hôm sau M dùng sơn đen tự sơn lại màu chiếc xe mô tô đã lấy trộm và thay ổ khoá để sử dụng. Khoảng 2 tuần sau, do không có tiền tiêu xài cá nhân, M đã mang chiếc xe mô tô đó đến cửa hàng thu mua sắt vụn của Nguyễn Thị D (sinh năm 1979) gần đường tròn Xuân, thành phố Cao Bằng bán được số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) và đã sử dụng để mua ma tuý, tiêu sài cá nhân hết. Sau đó Nguyễn Thị D đã bán lại chiếc xe mô tô đó cho Vương Văn T là thợ sửa chữa xe mô tô với giá 900.000,đ.

Vụ thứ hai: Khoảng 14 giờ ngày 06/08/2023, La Tân M  điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu đen biển kiểm soát 11H1- xxxx đi từ nhà tại xóm 9, xã Vĩnh Q, thành phố Cao Bằng ra khu vực vòng xuyến Km5, thuộc phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng. M để xe ở khu vực ngã ba quốc lộ 3 cũ và đi bộ về phía khu vực chợ Km5, phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng. M đi quanh khu vực chợ Km5 và khoảng 16 giờ cùng ngày M phát hiện trong đình chợ có 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 11V1-xxxxx không có chìa ở ổ khóa, không có ai trông giữ. M tiến đến chỗ để xe, dùng chùm chìa khóa (gồm 03 chìa) đã chuẩn bị sẵn mở khóa và nổ máy, điều khiển xe đi về phía Trường trung học phổ thông nội trú tỉnh Cao Bằng. Khi đến đoạn đường cua gần Trường trung học phổ thông nội trú, M dừng xe, dùng tay tháo biển số xe và lấy áo chống nắng, mũ bảo hiểm của chủ xe vứt ở bụi cây gần đó rồi tiếp tục điều khiển xe đi theo Quốc lộ 3 cũ đến đường tròn Xuân rồi đi theo hướng xã Vĩnh Q khoảng 100m rẽ trái đến điểm thu mua phế liệu của Triệu Thị T (sinh năm 1986) bán chiếc xe đó với giá 700.000,đ (bảy trăm nghìn đồng). M đã sử dụng hết số tiền bán xe để mua ma tuý và tiêu sài cá nhân.

Vụ thứ ba: Khoảng 16 giờ ngày 07/8/2023, M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S màu đen biển kiểm soát 11H1- xxxx đi từ nhà đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng với mục đích để lấy trộm xe mô tô. M gửi xe ở khu vực bãi gửi xe của Bệnh viện rồi đi bộ vào bãi để xe dành cho cán bộ nhân viên Bệnh viện. Quan sát xung quanh thấy không có người, M tiến lại gần chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu sơn xanh, biển kiểm soát 11U1-xxxxx và sử dụng chùm chìa khóa (gồm 03 chìa) đã chuẩn bị sẵn cắm vào ổ khóa, lấy bộ quần áo mưa màu xanh treo ở trên tường gần đó, đội mũ bảo hiểm để trên yên xe rồi nổ máy, điều khiển xe đi theo hướng đường 03/10 đến phường X để bán chiếc xe cho điểm thu mua phế liệu của Triệu Thị T. Trên đường đi, M cởi bộ quần áo mưa vứt ở ven đường và khi đi đến khu vực tổ 03, phường X thì bị Công an thành phố Cao Bằng phát hiện, đưa về trụ sở Công an thành phố Cao Bằng để làm việc.

Cơ quan điều tra đã thu giữ của Hoàng Văn X 01 xe mô tô biển kiểm soát 11B1-xxxxx, xe cũ đã qua sử dụng; Thu giữ của La Tân M : 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu sơn xanh, biển kiểm soát 11U1-xxxxx; 01 mũ bảo hiểm màu đen, có lưỡi chai, không rõ nhãn mác; 01 biển kiểm soát 11V1-00277 được ép viền kim loại, đã cũ, bị tháo rời; 01 ví giả da đã qua sử dụng màu ghi xám, bên trong không có tài sản gì; 01 áo chống nắng cũ màu xanh, dính đất bẩn; 01 điện thoại MASSTEL bàn phím cơ đã qua sử dụng; 03 chìa khóa (02 chìa có chuôi màu đen in chữ HONDA, 01 chìa có tay cầm màu đen bằng nhựa có buộc dây); Thu giữ tại bãi gửi xe của bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng: 01 xe HONDA WAVES màu đen xám, BKS 11H1-xxxx; 01 giấy phép lái xe mang tên La Thị H; 01 áo mưa toàn thân có mũ, màu xanh than; Thu giữ của Triệu Thị T: 01 xe mô tô cũ nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS màu trắng đen; Thu giữ của Vương Văn T: 01 xe mô tô cũ nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, không có biển kiểm soát, màu đen Ngày 09/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng có yêu cầu định giá tài sản số 277 yêu cầu xác định giá trị các tài sản M đã lấy trộm. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 51/KL-HĐĐGTS ngày 14/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Cao Bằng kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 11V1-xxxxx giá trị tài sản còn lại là 5.600.000,đ (năm triệu sáu trăm nghìn đồng); 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu sơn xanh, biển kiểm soát 11U1-xxxxx giá trị còn lại là 4.266.666,đ (bốn triệu hai trăm sáu mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi sáu đồng);

01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 11X1- xxxx giá trị tài sản còn lại là 3.633.333,đ (ba triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn ba trăm ba mươi ba đồng). Tổng giá trị tài sản là 13.499.999,đ (mười ba triệu bốn trăm chín mươi chín nghìn chín trăm chín mươi chín đồng) Xét thấy việc trả lại tang vật của vụ án không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên ngày 12/9/2023 Cơ quan điều tra đã trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu sơn xanh, biển kiểm soát 11U1-xxxxx, đã qua sử dụng cho Hứa Văn D là chủ sở hữu; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu sơn đen xám, biển kiểm soát 11H1-xxxx đã qua sử dụng cho La Thị H là chủ sở hữu; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 11X1-xxxx, xe cũ đã qua sử dụng cho Thẩm Quý D là chủ sở hữu; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 11V1-xxxxx, đã qua sử dụng cho Nông Thị H là chủ sở hữu.

Tại Bản cáo trạng số: 157/CT - VKSTP, ngày 14 tháng 11 năm 2023. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố các bị cáo La Tân M , Hoàng Văn X về tội “Trộm cắp tài sản" theo qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà:

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Bị hại Thẩm Quý D xác nhận: Ngày 09/7/2023, tại khu vực Quảng trường thuộc phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, ông có bị mất trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 11X1-xxxx để cạnh ghế đá phía trước quảng trường và đã trình báo cơ quan Công an làm rõ. Nay gia đình đã nhận lại tài sản nhưng do bị cáo M đã cạo số khung số máy làm biến dạng xe nên bị hại phải đi sửa chữa, khắc phục thiệt hại hết số tiền 1.090.000đ. Đề nghị bị cáo M bồi thường thiệt hại số tiền là 1.090.000đ Bị hại bà Nông Thị H xác nhận: Ngày 06/8/2023, tại khu vực chợ KM5, phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, bà có bị mất trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 11V1-xxxxx và đã trình báo cơ quan Công an làm rõ. Nay gia đình đã nhận lại tài sản nên không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm. Đề nghị HĐXX xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt và bản khai tại cơ quan điều tra, bị hại Hứa Văn D xác nhận: Ngày 07/8/2023, tại bãi để xe dành cho cán bộ nhân viên Bệnh viện đa khoa tỉnh Cao Bằng, ông có bị mất trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE màu sơn xanh, biển kiểm soát 11U1-xxxxx và đã trình báo cơ quan Công an làm rõ.

Nay gia đình đã nhận lại tài sản nên không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm. Đề nghị HĐXX xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt và bản khai tại cơ quan điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Triệu Thị T xác nhận, ngày 06/8/2023 được mua lại 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 11V1- xxxxx với bị cáo La Tân M với giá tiền là 700.000đ. Khi mua bán bị cáo nói là xe cũ bán sắt vụn nên M mua, nay Công an điều tra làm rõ xe là do phạm tội trộm cắp nên đã giao lại cơ quan điều tra để trả lại chủ sở hữu. Yêu cầu bị cáo La Tân M bồi thường trả lại 700.000đ tiền mua xe.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt và bản khai tại cơ quan điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Vương Văn T xác nhận, khoảng tháng 7/2023 được mua lại 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 11X1- xxxx với bà Nguyễn Thị D (là người chuyên thu mua sắt vụn) với giá là 900.000đ, nay Công an điều tra làm rõ xe là do phạm tội trộm cắp nên đã giao lại cơ quan điều tra để trả lại chủ sở hữu. Yêu cầu bị cáo La Tân M bồi thường trả lại 700.000đ tiền mua xe.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt và bản khai tại cơ quan điều tra người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị D xác nhận: Vào khoảng tháng 7/2023, bà được mua 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 11X1-xxxx với một người đàn ông không quen biết với giá 700.000đ (sau này cơ quan điều tra làm rõ M biết người đàn ông đó là bị cáo La Tân M ). Khi mua bán không biết đó là xe do phạm tội mà có, sau đó được bán lại cho Vương Văn T với giá 900.000đ. Nay tôi đã trả lại tiền 200.000đ cho ông T còn 700.000đ yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho ông T, ngoài ra không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Ngô Thị L xác nhận: Bà là vợ của bị cáo Hoàng Văn X và là chủ sở hữu chiếc xe máy biển kiểm soát 11B1-xxxxx.

Ngày 09/7/2023, X mang xe đi chở La Tân M thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bà không biết. Xe máy là phương tiện đi lại duy nhất của gia đình, đề nghị HĐXX xem xét trả lại cho bà để làm phương tiện đi lại kiếm sống.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà La Thị H xác nhận: Bà là chị gái bị cáo La Tân M và là chủ xe mô tô Honda Wave BKS 11H1-xxxx. Trong hai ngày 06, 07/8/2023, La Tân M có mượn xe máy của bà để đi lại, bà không biết M lấy xe để làm phương tiện đi thực hiện hành vi trộm cắp. Nay cơ quan điều tra Công an làm rõ trả lại xe cho bà bà không có ý kiến hay yêu cầu gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát căn cứ vào khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo La Tân M , Hoàng Văn X đều phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt, đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, các điểm h, g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo La Tân M , xử phạt bị cáo La Tân M từ 30 - 36 tháng tù; Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn X , xử phạt bị cáo Hoàng Văn X từ 06 - 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo M nhất trí bồi thường cho bị hại D và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà T, ông T nên đề nghị HĐXX công nhận sự thỏa thuận của bị cáo và bị hại, người liên quan.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị HĐXX xử:

Tịch thu tiêu hủy: 03 chìa khóa (02 chìa có chuôi màu đen in chữ HONDA, 01 chìa có tay cầm màu đen bằng nhựa có buộc dây); 01 áo mưa toàn thân có mũ, màu xanh than; 01 ví giả da đã qua sử dụng màu ghi xám, bên trong không có tài sản gì;

01 áo chống nắng cũ màu xanh, dính đất bẩn; 01 mũ bảo hiểm màu đen, có lưỡi chai, không rõ nhãn mác. Vì đây là công cụ phạm tội, vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Tịch thu phát mại sung Ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11B1-xxxxx thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng.

Trả lại cho người có quyền lợi liên quan bà Ngô Thị L 1/2 giá trị xe mô tô biển kiểm soát 11B1-xxxxx, xe cũ đã qua sử dụng, 01 giấy đăng ký xe mang tên Ngô Thị L. Vì đây là tài sản của bà Lê, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại MASSTEL bàn phím cơ, đã qua sử dụng, số IMEL 1: 358372048408620, số IMEL 2: 358372048566120. Vì đây là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội.

Về án phí, đề nghị HĐXX căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của kiểm sát viên về tội danh và hình phạt. Khi được nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về Tội danh: Tại phiên tòa, các bị cáo đều thừa nhận đã thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua đó đã chứng minh được: Do bản thân sử dụng ma túy và để có tiền phục vụ nhu cầu sinh hoạt của bản thân nên trong khoảng thời gian từ ngày 09/7 đến ngày 07/8/2023, La Tân M đã 03 (ba) lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại khu vực thành phố Cao Bằng. Cụ thể: Lần thứ nhất vào ngày 09/7/2023 La Tân M và Hoàng Văn X đã lấy trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen đỏ, biển kiểm soát 11X1-xxxx có giá trị còn lại là 3.633.333,đ (ba triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn ba trăm ba mươi ba đồng); Lần thứ hai vào ngày 06/8/2023 La Tân M đã lấy trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 11V1-xxxxx có giá trị còn lại là 5.600.000,đ (năm triệu sáu trăm nghìn đồng); Lần thứ ba vào ngày 07/8/2023 La Tân M đã lấy trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu sơn xanh, biển kiểm soát 11U1-xxxxx có giá trị còn lại là 4.266.666,đ (bốn triệu hai trăm sáu mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi sáu đồng). Do vậy La Tân M phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng giá trị tài sản đã chiếm đoạt là 13.499.999,đ (mười ba triệu bốn trăm chín mươi chín nghìn chín trăm chín mươi chín đồng). Hoàng Văn X phải chịu trách nhiệm hình sự với giá trị tài sản đã chiếm đoạt là 3.633.333,đ (ba triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn ba trăm ba mươi ba đồng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản.

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm ...” Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng truy tố các bị cáo La Tân M , Hoàng Văn X tội Trộm cắp tài sản là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo La Tân M , Hoàng Văn X  đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là phạm pháp, nhưng do bản thân bị cáo M nghiện ma túy nên đã rủ bị cáo X cùng thực hiện 01 hành vi trộm cắp và tự mình bị cáo M thực hiện 02 hành vi trộm cắp. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trật tự xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự:

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo M có 02 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm và phạm tội 02 lần trở lên quy định tại các điểm h, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo tại phiên tòa và tại sơ quan điều tra đều khai báo thành khẩn nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo X phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, bị cáo La Tân M là người nghiện ma túy, vừa đi chấp hành án phạt tù về chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm và phạm tội 02 lần trở lên, thể hiện thái độ coi thường pháp luật nên cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm khắc, trên mức khởi điểm, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian suy nghĩ, cải tạo bản thân trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội sau này. Đối với bị cáo Hoàng Văn X phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo tham gia với vai trò giúp sức, không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, chấp hành đầy đủ pháp luật tại nơi cư trú tuy nhiên bị cáo sau khi đồng phạm cùng bị cáo La Tân M thực hiện hành vi trộm cắp tài sản xong bị cáo lại thực hiện hành vi đi mua ma túy về để cùng bị cáo La Tân M sử dụng chung, hành vi của bị cáo liên tục vi phạm pháp luật. Do đó, cũng cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để bị cáo cải tạo bản thân trở thành công dân lương thiện có ích cho xã hội sau này.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định, chưa có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo M nhất trí bồi thường cho bị hại ông D số tiền 1.090.000đ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà T1, ông T mỗi người 700.000đ. Thỏa thuận của bị cáo và bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần được công nhận.

[8] Về xử lý vật chứng:

Đối với 03 chìa khóa (02 chìa có chuôi màu đen in chữ HONDA, 01 chìa có tay cầm màu đen bằng nhựa có buộc dây); 01 áo mưa toàn thân có mũ, màu xanh than; 01 ví giả da đã qua sử dụng màu ghi xám, bên trong không có tài sản gì; 01 áo chống nắng cũ màu xanh, dính đất bẩn; 01 mũ bảo hiểm màu đen, có lưỡi chai, không rõ nhãn mác. Đây là công cụ phạm tội, vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 11B1-xxxxx, xe cũ đã qua sử dụng, đây là tài sản chung của vợ chồng, căn cứ Điều 59 của Luật hôn nhân và gia đình thì tài chung của vợ chồng được chia đôi. Bị cáo X mang xe đi làm phương tiện phạm tội nên cần phải tịch thu phát mại 1/2 giá trị xe máy để xung Ngân sách Nhà nước. Trả lại 1/2 giá trị xe máy và 01 giấy đăng ký xe mang tên Ngô Thị L. Vì đây là tài sản của bà Lê, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bà Lê.

Đối với 01 điện thoại MASSTEL bàn phím cơ, đã qua sử dụng, số IMEL 1: 358372048408620, số IMEL 2: 358372048566120. Đây là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần được trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo M, X phải chịu nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với ông Vương Văn T, bà Triệu Thị T, Nguyễn Thị D do không biết tài sản do phạm tội mà có nên cơ quan điều tra không xử lý đối với ông T, các bà T1, Dung là có căn cứ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, các điểm h, g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo La Tân M ;

Căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn X .

2. Về tội danh: Tuyên bố: Các bị cáo La Tân M , Hoàng Văn X  đều phạm tội “Trộm cắp tài sản”

3. Về mức hình phạt:

 Xử phạt:

- Bị cáo La Tân M  36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 07/8/2023.

- Bị cáo Hoàng Văn X  06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và bị cáo vào trại chấp hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585 của Bộ luật dân sự, công nhận sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại tài sản giữa bị cáo La Tân M  với bị hại Thẩm Quý D (sinh năm: 1990, địa chỉ: Tổ 07, phường Gang, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng) số tiền thiệt hại tài sản bị cáo M có trách nhiệm bồi thường cho bị hại D là 1.090.000đ; Bị có M có trách nhiệm bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Triệu Thị T (sinh năm: 1986; Địa chỉ: Tạm trú tại Tổ 03, phường X, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng) và ông Vương Văn T (sinh năm: 1985; Địa chỉ: Tổ 03, phường X, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng) mỗi người số tiền 700.000.đ Trách nhiệm dân sự này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

 Xử:

Tịch thu tiêu hủy: 03 chìa khóa (02 chìa có chuôi màu đen in chữ HONDA, 01 chìa có tay cầm màu đen bằng nhựa có buộc dây); 01 áo mưa toàn thân có mũ, màu xanh than; 01 ví giả da đã qua sử dụng màu ghi xám, bên trong không có tài sản gì; 01 áo chống nắng cũ màu xanh, dính đất bẩn; 01 mũ bảo hiểm màu đen, có lưỡi chai, không rõ nhãn mác.

Tịch thu phát mại 1/2 giá trị xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, màu sơn trắng đen bạc, biển kiểm soát 11B1-xxxxx, số khung: 1254FY432822, số máy HC12E743881, xe cũ đã qua sử dụng (đăng ký lần đầu năm 2017) để xung Ngân sách Nhà nước. Trả lại 1/2 giá trị xe máy và 01 giấy đăng ký xe mang tên Ngô Thị L trú tại: Xóm 08, xã Vĩnh Q, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

Trả lại cho bị cáo La Tân M  01 điện thoại MASSTEL bàn phím cơ, đã qua sử dụng, số IMEL 1: 358372048408620, số IMEL 2: 358372048566120.

Biên bản giao nhận vật chứng số 19 ngày 22/11/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Các bị cáo La Tân M , Hoàng Văn X  mỗi bị cáo phải chịu nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung Ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, bị hại, người liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày19/12/2023. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 167/2023/HS-ST

Số hiệu:167/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về