Bản án về tội trộm cắp tài sản số 166/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 166/2021/HS-ST NGÀY 02/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 144/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 239/2021/QĐXXST-HS ngày 17/11/2021 đối với bị cáo:

Trần Thị Mỹ T; sinh năm 1974, tại Thành phố S, nơi cư trú (Hộ khẩu thường trú: 166/5/3B Đường LTT, Phường M, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Không có nơi cư trú nhất định); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn A và bà Trần Thị H; chồng Nguyễn Văn Tâm và có 02 con (lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2003); tiền sự: Không;

Tiền án:

- Ngày 24/3/2014, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh kết án 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 57/2014/HSST). Chấp hành xong bản án vào ngày 29/11/2014.

- Ngày 05/4/2016, Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh kết án 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 85/2016/HSST). Chấp hành xong bản án vào ngày 30/4/2017.

Nhân thân: Ngày 13/8/2012, Công an Phường 7, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng, về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Đã nộp tiền phạt ngày 10/01/2014.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/6/2021 đến nay. (có mặt).

- Bị hại: Anh Hồ Minh Q , sinh ngày 07/10/2003; nơi cư trú: số ** đường D, Phường 2, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 19 phút, ngày 16/4/2018, Trần Thị Mỹ T là khách hàng quen đến mua dừa của ông Hồ Văn H1 tại nhà số 198/44B ADL, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi đó, anh Hồ Minh Q (con ông H) có để chiếc điện thoại hiệu SamSung J7 trên bàn, lợi dụng lúc anh Q và ông H1 sơ hở, mất cảnh giác, T lén lút lấy trộm điện thoại trên rồi mang ra cửa hàng điện thoại di động số 17C Hùng Vương, Phường 4, Quận 5 bán cho anh Phan Tấn T1 được số tiền 1.500.000 đồng, đã tiêu xài cá nhân hết.

Khi phát hiện tài sản của anh Q bị mất, ông H1 (cha anh Q) đến Công an Phường 3, Quận 8 trình báo và giao nộp 01 USB chứa hình ảnh T lấy trộm tài sản. Công an Phường 3, Quận 8 ghi nhận sự việc và kiểm tra camera phát hiện người lấy trộm điện thoại là Trần Thị Mỹ T nên mời T về trụ sở để làm việc và T thừa nhận hành vi chiếm đoạt tài. Sau đó, hồ sơ chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8 để điều tra, xử lý.

Tại Kết luận định giá tài sản ngày 27/4/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 8 kết luận chiếc điện thoại di động hiệu SamSung J7 có giá trị là 2.290.000 đồng.

Ngày 07/11/2018, Cơ quan điều tra Công an Quận 8 khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Trần Thị Mỹ T nhưng T bỏ trốn. Ngày 30/01/2019, Công an Quận 8 ra quyết định truy nã và bắt được T vào ngày 09/6/2021.

Quá trình điều tra, Trần Thị Mỹ T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Lời khai của T phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo T đã bồi thường cho anh Hồ Minh Q số tiền 1.300.000 đồng. Anh Q không yêu cầu bồi thường thêm, đồng thời anh Q đã làm đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho Trần Thị Mỹ T.

Vật chứng tạm giữ trong vụ án: 01 USB lưu giữ trong hồ sơ.

Tại bản Cáo trạng số 161/CT-VKSQ8 ngày 09/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Trần Thị Mỹ T về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Thị Mỹ T về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết, về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định vào khoảng 16 giờ 19 phút, ngày 16/4/2018, tại nhà số 198/44B ADL, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Trần Thị Mỹ T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu SamSung J7 trị giá 2.290.000 đồng của anh Hồ Minh Q.

[3] Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Trộm cắp tài sản” như sau:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

g) Tái phạm nguy hiểm.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2016, bị Tòa án nhân dân Quận 5 kết án 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm”, bị cáo chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Như vậy Hội đồng xét xử có cơ sở xác định hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[6] Về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu, năm 2012 bị Công an Phường 7, Quận 8 ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Quá trình điều tra, bị cáo bỏ trốn và bị bắt truy nã, gây khó khăn cho việc điều tra vụ án. Do đó, khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét để có mức hình phạt phù hợp với nhân thân của bị cáo.

[7] Cáo hạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại Hồ Minh Q đã được gia đình bị cáo bồi thường một phần thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt không thu hồi được, anh Q không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 USB ghi hình bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội được camera ghi lại do ông Hồ Văn H1 giao nộp và ông H1 không có yêu cầu nhận lại. Do đó, căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.

[ 11] Đối với anh Phan Tấn T1 là người mua tài sản của T1, anh T1 không biết là tài sản do phạm tội mà có. Sau khi mua, anh T1 đã bán cho người khác (không xác định tên tuổi, địa chỉ) nên Cơ quan điều tra không có cơ sở thu hồi vật chứng và xử lý nên Hội đồng xét xử không xem.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 và Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Mỹ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/6/2021.

- Căn cứ vào Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Trần Thị Mỹ T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 166/2021/HS-ST

Số hiệu:166/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về