Bản án về tội trộm cắp tài sản số 165/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 165/2020/HS-ST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22/10/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 165/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh 01/3/2003; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn TH, xã MT, huyện HH, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị T; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Danh chỉ bản số 000000427 lập ngày 07/8/2020 của Công an huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn : Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Quốc D, sinh 05/4/2003; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn XG, xã MT, huyện HH, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị T2; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Danh chỉ bản số 000000428 lập ngày 07/8/2020 của Công an huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn : Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo H: Ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1984; Cùng cư trú: Thôn TH, xã MT, huyện HH, tỉnh Bắc Giang. Có mặt ông H1 tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo D: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1984; Cùng cư trú: Thôn XG, xã MT, huyện HH, tỉnh Bắc Giang. Có mặt ông Liên tại phiên tòa.

Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Đỗ Thị H2 - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư BN - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Anh Trần Viết C, sinh năm 1983; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số K, ngõ Z đường TC, phường CN, quận BTL, thành phố Hà Nội; Nơi ở hiện nay: Xóm U, thôn HB, xã HB, huyện ĐA, thành phố Hà Nội.

Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Cháu Quách Xuân D, sinh 15/03/2003; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn TS, xã HS, huyện LS, tỉnh Hòa Bình; Nơi ở hiện nay: Xóm 4, thôn HB, xã HB, huyện ĐA, thành phố Hà Nội.

Vắng mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của cháu D: Ông Quách Xuân K, sinh năm 1970; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn TS, xã HS, huyện LS, tỉnh Hòa Bình Vắng mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Hữu T3, sinh năm 1989; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đội P, xã VB, huyện CK, tỉnh Phú Thọ; Nơi ở hiện nay: Đội Q, thôn B, xã KC, huyện ĐA, thành phố Hà Nội.

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian nghỉ hè năm học 2019 - 2020, Nguyễn Văn H (học sinh lớp 11A10 trường THPT HH 3) và Nguyễn Quốc D cùng nhau xuống Hà Nội xin việc làm thêm. Khoảng 09 giờ ngày 08/7/2020 H và D đến xưởng cơ khí của anh Trần Viết C (sinh năm 1983; HKTT: Số K, ngõ Z đường TC, phường CN, quận BTL, thành phố Hà Nội; Nơi ở hiện nay: Xóm U, thôn HB, xã HB, huyện ĐA, thành phố Hà Nội làm chủ) địa chỉ: Xóm 4, thôn HB, xã HB, Đông Anh xin làm thợ. Sáng ngày 08/7/2020, D và H mang quần áo đến làm việc buổi đầu tiên tại xưởng nhà anh C (D và H xin ở lại nhà anh C). Khoảng 21h30’ cùng ngày, H, D, anh C và anh Quách Xuân D (sinh ngày 15/3/2003; HKTT: TS, HS, LS, Ninh Bình là thợ của anh C) cùng ăn tối tại phòng khách tầng 1 nhà anh C. Trong quá trình ăn tối, anh C mắng D vì thái độ không tôn trọng chủ đồng thời nói không nhận D và H làm việc. D chửi, xúc phạm anh C “Đ.mẹ anh giờ anh muốn thế nào, đừng ép người quá đáng” và cầm 02 vỏ chai bia Hà Nội đập vào nhau cho vỡ, D cầm 02 cổ chai bia bị vỡ định đánh anh C thì được anh D và H can ngăn, đẩy ra ngoài hiên nhà. Anh C và anh D đến Công an xã HB - Công an huyện Đông Anh trình báo sự việc. D và H vẫn ở tại nhà anh C.

Thấy anh C và anh D đi, không có người ở nhà, D và H lên tầng 2 dọn quần áo để đi về quê Bắc Giang. Khi xuống đến cầu thang tầng 1, H nhìn thấy 01 điện thoại Iphone 6S Plus màu đen, ốp màu trắng, gắn số thuê bao 0865406581 của anh D để trên kệ gỗ gần pho tượng trong phòng khách, H nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu sài nên nói với D “tao biết mật khẩu, lấy máy bán lấy tiền về quê” (trong quá trình làm việc cùng anh D, H có mượn điện thoại của anh D để nghe nhạc nên biết mật khẩu máy là “152003”), D đồng ý. H lấy điện thoại Iphone 6S plus cất giấu vào balo của D. D quan sát phát hiện chiếc điện thoại Samsung Galaxy Note 9, màu đen, ốp da màu đen, gắn 02 số thuê bao 0986025353 và 0963325353 của anh C dưới nền phòng khách gần đó nên lấy cất giấu vào trong balo của mình. D dùng chân đá vỡ 07 vỏ chai bia Hà Nội, 01 cốc thủy tinh và 01 cốc nhựa phít rồi cùng H bắt taxi (không nhớ tên hãng, không biết danh tính người lái xe) đến nhà nghỉ “QN” do anh Lê Hữu L (sinh năm 1970; HKTT: thôn HB, HB, Đông Anh, Hà Nội làm chủ) thuộc thôn ĐN, HB, Đông Anh để thuê phòng 202 nghỉ qua đêm. D và H hẹn người lái xe sáng hôm sau đến đón. Tại phòng nghỉ, D và H tháo 02 sim trong điện thoại vừa trộm cắp được của anh C, H cầm 02 sim điện thoại cất vào trong balo, thoát tài khoản iCloud trong máy Iphone 6S plus của anh D rồi đi ngủ. Khoảng 07h50’ ngày 09/7/2020, D và H gặp người lái xe taxi hôm trước vay 170.000 đồng (một trăm bảy mươi nghìn đồng) trả tiền thuê phòng rồi bảo trở đến cửa hàng điện thoại “T3 Mobile” do anh Nguyễn Hữu T3 (sinh năm 1989; HKTT: Đội P, xã VB, huyện CK, tỉnh Phú Thọ làm chủ) thuộc thôn B, KC, Đông Anh, người lái xe taxi đợi bên ngoài. Khi bán cho anh T3, H nhập mật khẩu màn hình và thoát tài khoản iCould của điện thoại để anh T3 kiểm tra máy. H và D không nói cho anh T3 biết chiếc điện thoại là do H và D trộm cắp mà có. D cùng H thống nhất bán điện thoại của anh D được 2.400.000 đồng, anh T3 tháo sim trong máy đưa cho H, đưa 2.400.000 đồng cho D, hai bên không viết giấy tờ gì. Sau khi bán điện thoại, D và H lên xe taxi để đến khu vực chân cầu Thăng Long đợi xe khách về quê tỉnh Bắc Giang. Khi đến ngã 3 đường Võ Văn Kiệt với đường 06 cây thuộc địa phận xã HB, Đông Anh, Hà Nội. D trả tiền taxi tổng hết số tiền 700.000 đồng và đưa cho H 1.500.000 đồng. H và D ăn uống chi tiêu hết 230.000 đồng, còn 1.470.000 đồng, H tự nguyện giao nộp Cơ quan điều tra.

Khi anh C và anh D về nhà phát hiện bị trộm cắp tài sản và bị hủy hoại tài sản nên đến Công an xã HB thuộc Công an huyện Đông Anh trình báo sự việc. Công an xã HB đã tiến hành rà soát, phát hiện D và H đang đợi bắt xe khách tại khu vực chân cầu Thăng Long thuộc thôn B, KC, Đông Anh, Công an xã HB đã mời về trụ sở để làm việc.

Vật chứng tạm giữ:

- Của Nguyễn Văn H:

+ 01 điện thoại Viettel, màu: vàng - đen, gắn thẻ sim: 0386080037 (điện thoại của H) + 01 điện thoại Iphone 6, màu: xám, không lắp thẻ sim (điện thoại của H) +01 điện thoại Samsung Galaxy Note 9, màu: đen, không lắp thẻ sim, bên ngoài lắp 01 ốp điện thoại bằng nhựa và da màu đen (điện thoại của anh C bị trộm cắp).

+ 03 thẻ sim của nhà mạng Viettel (02 sim số thuê bao 0986025353, 0963325353 và 01 sim số thuê bao 0865406581 trộm cắp được).

+ Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.470.000 đồng (tiền bán điện thoại trộm cắp còn lại) và 930.000 đồng (H khắc phục hậu quả) - Của Nguyễn Hữu T3:

+ 01 điện thoại Iphone 6S Plus, màu: đen - xám, không gắn thẻ sim (điện thoại của anh D bị trộm cắp).

+ 01 ốp điện thoại bằng nhựa dẻo màu trắng (ốp điện thoại của anh D bị trộm cắp).

- Của anh Lê Hữu Long: 01(một) USB nhãn hiệu Kingston màu đen, dung lượng 16GB, bên trong chứa hình ảnh bị cáo D và H ra vào nhà nghỉ “Quỳnh Nga” Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 301 ngày 16/7/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên để định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Đông Anh, kết luận:

01 điện thoại Samsung Galaxy Note 9, màu đen trị giá 9.000.000 đồng, 02 thẻ sim số:

0986025353, 0963325353 trị giá 100.000 đồng, 01 ốp điện thoại bằng nhựa và da màu đen trị giá 100.000 đồng; 01 điện thoại Iphone 6S Plus, màu đen – xám trị giá 2.400.000 đồng; 01 ốp điện thoại bằng nhựa dẻo màu trắng trị giá 50.000 đồng, thẻ sim số 0865406581 trị giá 50.000 đồng. Tổng trị giá tài sản Nguyễn Văn H và Nguyễn Quốc D trộm cắp trị giá 11.700.000 đồng.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 370 ngày 04/9/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên để định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Đông Anh, kết luận:

09 vỏ chai bia Hà Nội loại 450ml trị giá 13.500 đồng , 01 chiếc cốc thủy tinh màu trắng đường kính 06cm, cao 11 cm, dung tích 300ml trị giá 10.000 đồng và 01cốc nhựa phít màu vàng đường kính 06cm, cao 11 cm trị giá 8000 đồng. Tổng trị giá 31.500 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, lời khai, kiểm điểm ban đầu, các bị cáo Nguyễn Quốc D và Nguyễn Văn H khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của anh C và anh D, phù hợp với tài liệu xác minh, thu thập được có trong hồ sơ. Quá trình điều tra tiếp, bị cáo H không thừa nhận trộm cắp chiếc điện thoại Iphone 6S plus của anh D. H khai sau khi D trộm cắp 02 chiếc điện thoại của anh C và anh D thì H mới biết nhưng vẫn cùng D đi tiêu thụ và hưởng lợi từ việc tiêu thụ. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định việc lấy lời khai Nguyễn Văn H của Công an xã HB là khách quan, có sự tham gia giám hộ của anh Đỗ Văn T4 – Phó bí thư chi đoàn xã HB. Do vậy, việc H thay đổi lời khai là không có căn cứ.

Đối với việc anh Nguyễn Hữu T3 mua chiếc điện thoại Iphone 6S plus do các bị cáo H và D bán, anh T3 không biết là tài sản do người khác phạm tội mà có nên không phạm tội, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

Đối với người lái xe taxi chở H và D, H và D không biết danh tính người này, ngoài lời khai của H và D ra không có tài liệu nào khác nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ, xử lý.

Đối với hành vi của bị cáo D sau khi bị anh Trần Viết C mắng, bị cáo D đã chửi xúc phạm danh dự anh C; D có hành vi đập phá tài sản của anh C, tổng trị giá 31.500 đồng. Về nhân thân, bị cáo D chưa có tiền án tiền sự. Hành vi Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác và Hủy hoại tài sản của người khác của bị cáo D phạm vào điểm a khoản 1 Điều 5 và điểm a khoản 2 Điều 15, Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Ngày 11/9/2020, Công an huyện Đông Anh đã Quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo D.

Tại cáo trạng số 161/CT-VKS ngày 16/9/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Văn H và Nguyễn Quốc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo D khai nhận tội như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo H lúc đầu chối tội, sau mới nhận tội. Các bị cáo thừa nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 08/7/2020 tại Xóm 4, HB, HB, Đông Anh, Hà Nội, các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Quốc D đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 9 màu đen, 02 thẻ sim số 0986025353, 0963325353, 01 ốp điện thoại bằng nhựa và da màu đen, tổng trị giá là 9.200.000 đồng của anh Trần Viết C; 01 điện thoại Iphone 6S Plus, màu đen – xám; 01 ốp điện thoại bằng nhựa dẻo màu trắng, 01 thẻ sim số 0865406581, tổng trị giá 2.500.000 đồng của anh Quách Xuân D.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), đối với Nguyễn Quốc D; xử phạt: Nguyễn Quốc D với mức án từ 06 đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm i, b khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), đối với Nguyễn Văn H; xử phạt: Nguyễn Văn H với mức án từ 06 đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng Không phạt tiền các bị cáo.

Người bào chữa cho các bị cáo tại phiên tòa: Đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng án treo để các bị cáo cải tạo ngoài xã hội, trở thành người tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Đông Anh thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố và xét xử. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã đầy đủ lời khai tại cơ quan điều tra, không còn yêu cầu gì về dân sự nên Tòa án xét xử vắng mặt họ.

[2] Về hành vi và tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Quốc D tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác tại cơ quan điều tra. Được chứng minh bằng vật chứng của vụ án là 02 chiếc điện thoại di động mà H và D đã chiếm đoạt có tổng giá trị là 11.700.000.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Quốc D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 173, khoản 1 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).

[3] Về nhân thân, tiền án, tiền sự và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

- Về tiền án, tiền sự: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự.

- Về nhân thân: Các bị cáo được xác định có nhân thân tốt.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình, Tòa án đã xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để từ đó có hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể:

+ Tình tiết tăng nặng: Không có.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo D thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về tội lỗi của mình, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ, cần áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015. Bị chưa thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã nộp số tiền 930.000 đồng để khắc phục hậu quả, có ông nội được tặng huân chương kháng chiến, bà nội là mẹ Việt Nam anh hùng, người bị hại anh Trần Viết C có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

[4] Về hình phạt:

- Hành vi Trộm cắp tài sản của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại quyền sở hữu tài sản của Cơ quan, tổ chức được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hại cho xã hội và bị Nhà nước quy định là tội phạm, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài và về quê nên các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ tài sản, lén lút chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động trị giá 11.700.000 đồng. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo nhằm hạn chế các loại tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn huyện Đông Anh nói riêng và thành phố Hà Nội nói chung. Tuy nhiên các bị cáo là người chưa thành niên nhận thức pháp luật còn hạn chế, lần phạm tội này đối với các bị cáo đều là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng không ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy xử phạt các bị cáo hình phạt tù trong khung hình phạt tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo nhưng cho các bị cáo hưởng án treo cũng đủ răn đe, giáo dục đối với các bị cáo vừa thể hiện sự khoan hồng của pháp luật trong chính sách nhân đạo của Nhà nước để các bị cáo có cơ hội cải tạo ngoài xã hội trở thành người tốt.

- Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định, thì người phạm tội có thể còn bị phạt tiền…Tuy nhiên, xét trong trường hợp này bị cáo chưa có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về biện pháp tư pháp và trách nhiệm dân sự:

Đối với chiếc điện thoại Samsung Galaxy Note 9, màu: đen, bên ngoài lắp 01 ốp điện thoại bằng nhựa và da màu đen; 02 sim số thuê bao 0986025353, 0963325353 xác định là tài sản hợp pháp của anh C. Ngày 29/7/2020, Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trả cho anh C là có căn cứ pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại Iphone 6S Plus, màu: đen - xám, 01 ốp điện thoại bằng nhựa dẻo màu trắng và 01 sim số thuê bao 0865406581 xác định là tài sản hợp pháp của anh D. Ngày 29/7/2020, Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trả cho anh D là có căn cứ pháp luật.

Đối với số tiền 1.470.000 đồng đã tạm giữ trên người bị cáo H là số tiền do bán điện thoại của anh D mà có và số tiền 930.000 đồng bị cáo H tự nguyện khắc phục hậu quả. Ngày 11/9/2020, Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trả cho anh Nguyễn Hữu T3 là có căn cứ pháp luật.

Đối với chiếc USB nhãn hiệu Kingston màu đen, dung lượng 16GB chứa hình ảnh bị can D và H ra vào nhà nghỉ “QN”, Cơ quan điều tra đã kiểm tra, trích xuất hình ảnh đưa vào trong hồ sơ vụ án, anh Lê Văn L đề nghị được nhận lại để sử dụng nên không cần tiếp tục tạm giữ. Ngày 11/9/2020, Cơ quan điều tra Quyết định xử lý vật chứng trả cho anh L là có căn cứ pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại Viettel, màu: vàng - đen, gắn thẻ sim: 0386080037 và chiếc điện thoại Iphone 6, màu: xám, không lắp thẻ sim tạm giữ của bị cáo Nguyễn Văn H là tài sản của bị cáo H không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

Việc xử lý như trên là đúng với quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn yêu cầu gì về dân sự nên không phải xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đối với bị cáo Nguyễn Văn H.

- Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 đối với bị cáo Nguyễn Quốc D.

- Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331; Điều 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cùng danh mục kèm theo.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Quốc D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt:

Nguyễn Văn H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã MT, huyện HH, tỉnh Bắc Giang (nơi bị cáo cư trú) để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách của bản án. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Nguyễn Quốc D 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã MT, huyện HH, tỉnh Bắc Giang (nơi bị cáo cư trú) để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách của bản án. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn H 02 chiếc điện thoại di động tạm giữ của bị cáo (Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/9/2020 giữa Công an huyện Đông Anh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh).

Bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Quốc D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của các bị cáo; người bào chữa cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chỉ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 165/2020/HS-ST

Số hiệu:165/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về