Bản án về tội trộm cắp tài sản số 164/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 164/2023/HS-ST NGÀY 30/10/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 10 năm 2023 tại phòng xử án, trụ sở Tòa án nhân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 175/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023 đối với:

Bị cáo: Lê Tấn T, tên gọi khác: không; sinh năm 1977, tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi đăng ký HKTT: 68/421 TQK, phường TĐ, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ở hiện tại: Không có nơi ở ổn định; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không;

Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S (chết) và bà Võ Thị Ng (chết); anh, chị, em: có 06 người và bị cáo là con út.

Tiền sự: Không. Tiền án: Không.

Nhân thân:

Ngày 01/6/1993, Công an Quận 1 bắt về hành vi Trộm cắp tài sản công dân và bị xử lý bằng hình thức tha. Không thu thập được Quyết định xử lý đối với T nhưng Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh có văn bản xác nhận thông tin này.

Ngày 06/12/1995, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội "Cướp tài sản của công dân" theo Bản án số 1736/HSST. Bị cáo trốn khỏi nơi giam. Đến ngày 14/10/1996 thì bị bắt.

Ngày 18/3/1998 , Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử và ra bản án số 447/HSST, xử phạt 04 năm tù về tội "Trốn khỏi nơi giam" và 18 tháng 19 ngày chưa chấp hành của bản án số 1736/HSST ngày 06/12/1995, về tội "Cướp tài sản của công dân". Tổng hợp hình phạt tù buộc bị cáo chấp hành 05 năm 06 tháng 19 ngày tù. Bị cáo kháng cáo bản án số 447/HSST. Sau đó Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử và ra bản án số 1105/HSPT ngày 26/6/1998 giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo đã thi hành án xong án phạt tù.

Đối với việc nộp án phí thì Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh trả lời không có thông tin về bản án và việc thi hành án phí bản án trên.

Ngày 10/3/2005, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội "Cướp giật tài sản" theo Bản án số 84/HSST. Đã thi hành án xong án phạt tù, đối với việc nộp án phí thì Chi cục thi hành án dân sự Quận 1 trả lời chưa thụ lý thi hành bản án trên.

Ngày 12/4/2012, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội "Trộm cắp sản" theo Bản án số 79/HSST. Đã thi hành án xong án phạt tù và nộp án phí.

Ngày 14/1/2016, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản" và buộc nộp 400.000 đồng tiền thu lợi bất chính theo Bản án số 20/HSST. Đã thi hành xong án phạt tù vào ngày 18/9/2017, đã hoàn thành việc nộp tiền thu lợi bất chính và án phí vào tháng 8/2017.

Ngày 11/4/2018, Ủy ban nhân dân Phường TĐ, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 99/QĐ-UBND Quyết định đưa người cai nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Thanh thiếu niên 2 để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 06/6/2018, Ủy ban nhân dân Phường TĐ, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 194/QĐ-UBND về việc hủy Quyết định đưa người cai nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Thanh thiếu niên 2 để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Ngày 15/10/2020, bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, ra Quyết định số 85/2020/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đã chấp hành xong 15/6/2022.

Bị tạm giam ngày 22/6/2023.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Bị hại: Bà Vòng Ngọc L1, sinh năm 2003 Địa chỉ: 125/16/9 BĐ, Phường X, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

+ Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Ý N, sinh năm 2003 Địa chỉ: 125/16/9 BĐ, Phường X, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 50 phút ngày 22/6/2023, Lê Tấn T do muốn có tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền. Khi T đi bộ đến trước nhà số 112 BĐ, Phường 12, quận Bình Thạnh, thì thấy xe mô tô hiệu Honda AirBlade màu đen biển số 60H1-516.xx của bà Vòng Ngọc L1 đang dựng phía trước, không có người trông coi, không khóa cổ xe. T tiến đến, lấy mũ bảo hiểm màu đen đang treo trên xe đội lên đầu rồi dắt bộ chiếc xe đi. Khi T dắt đến hẻm 125 BĐ, Phường X, quận Bình Thạnh, thì bị bà L và bạn của mình là bà Nguyễn Thị Ý N phát hiện hô hoán đuổi bắt. Thời điểm đó có cán bộ Công an Phường X quận Bình Thạnh đang đi tuần nên tiến hành truy đuổi. Lúc đó T bỏ xe lại và chạy bộ đến trước nhà số 125/29 BĐ, Phường X thì bị bắt, sau đó được đưa về trụ sở Công an Phường 12 làm việc.

Tại công an Phường 12 và Cơ quan điều tra, T đã thừa nhận hành vi phạm tội nêu trên. Bà L khai, vào khoảng 22 giờ 40 phút ngày 22/6/2023, bà L chở bạn mình là bà Nhi bằng xe Honda AirBlade biển số 60H1-516.xx đến cửa hàng MiniStop, để mua đồ. Khi đến nơi bà L dựng xe phía trước, treo mũ bảo hiểm màu đen trên xe. Khi đang mua sắm trong cửa hàng thì bà Nhi nhìn ra trước cửa hàng thấy có người đang dắt xe của bà L đi nên cùng với bà L hô hoán và đuổi theo, sau đó cùng với Công an phường đang đi tuần bắt giữ được Lê Tấn T. Ngoài chiếc xe tang vật được thu giữ được thì chiếc mũ bảo hiểm T lấy của bà L, T đã ném trên đường bỏ chạy do bị truy bắt, nên không thu hồi được.

Kết luận định giá tài sản số 121/KLĐGTS-TCKH ngày 28/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh, tại thời điểm ngày 22/6/2023, chiếc xe Honda AirBlade biển số 60H1-516.xx của bà L có giá trị 30.000.000 đồng, mũ bảo hiểm không đủ cơ sở định giá.

Vật chứng:

- 01 xe gắn máy hiệu Honda AirBlade biển số 60H1-516.xx. Kết quả xác minh có số khung và số máy không đổi, là tài sản của bà L nên Cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho bà L;

- 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần dài vải jean màu xanh là đồ T mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp;

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J3, là tài sản cá nhân của T;

- 01 sim điện thoại số 09087616xx thu giữ trên người của Lê Tấn T;

- 01 USB ghi hình Lê Tấn T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại Vòng Ngọc L1 đã nhận lại xe gắn máy Honda AirBlade, là tài sản bị chiếm đoạt nên không có yêu cầu bồi thường gì khác.

Tại bản cáo trạng số 176/CT-VKSBTh ngày 06 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, đã truy tố bị can Lê Tấn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Bị cáo Lê Tấn T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng nêu. Bị cáo thống nhất với tội danh và khung hình phạt như cáo trạng đã nêu, thừa nhận việc truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bị cáo Lê Tấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

+ Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Lưu hồ sơ vụ án 01 USB ghi hình Lê Tấn T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

- Tịch thu tiêu hủy 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần dài vải jean màu xanh là đồ T mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J3 và 01 sim điện thoại số 09087616xx.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

Phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về xã hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì, cũng không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tố tụng: Về sự vắng mặt của bị hại tại phiên tòa. Xét thấy, tại giai đoạn điều tra, bị hại đã được Cơ quan điều tra lấy lời khai theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Lê Tấn T tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi bị cáo T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố đối với bị cáo. Căn cứ vào lời khai nhận tội bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lê Tấn T lợi dụng sơ hở của bà Vòng Ngọc L1 đã lén lút chiếm đoạt 01 xe gắn máy hiệu Honda AirBlade biển số 60H1-516.xx trị giá 30.000.000 đồng và 01 mũ bảo hiểm bị mất không có cơ sở định giá. Mục đích trộm cắp để bán tiêu xài cá nhân cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 121/KLĐGTS-TCKH ngày 28/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh, tại thời điểm ngày 22/6/2023, chiếc xe Honda AirBlade biển số 60H1-516.xx của bà L có giá trị 30.000.000 đồng, mũ bảo hiểm không đủ cơ sở định giá.

Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo, xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách hiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ nhận thức để nhận biết được hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị cáo đã thực hiện hành vi lấy trộm xe máy của bà Vòng Ngọc L1, đây là hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự an ninh xã hội, gây hoang mang cho người dân. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án tù giam là phù hợp, nhằm giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội, chấp hành pháp luật và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo xét thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc đối với bị cáo. Tuy nhiên, Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước. Vì vậy, Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo phần hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Về các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội và xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Vật chứng:

- 01 xe gắn máy hiệu Honda AirBlade biển số 60H1-516.xx. Kết quả xác minh có số khung và số máy không đổi, là tài sản của bà L nên Cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho bà L;

- 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần dài vải jean màu xanh là đồ T mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp. Không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J3, là tài sản cá nhân của T. Không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo;

- 01 sim điện thoại số 09087616xx thu giữ trên người của Lê Tấn T. Không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo;

- cần lưu 01 USB ghi hình Lê Tấn T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại Vòng Ngọc L1 đã nhận lại xe gắn máy Honda AirBlade, là tài sản bị chiếm đoạt nên không có yêu cầu bồi thường gì khác.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Tấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Lê Tấn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 6 năm 2023.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội và xử lý vật chứng;

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106, Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Lưu hồ sơ vụ án 01 USB ghi hình Lê Tấn T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Tịch thu tiêu hủy 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần dài vải jean màu xanh là đồ T mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J3 và 01 sim điện thoại số 09087616xx.

(Tình trạng giao nhận vật chứng như biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, chứng cứ ngày 11/10/2023 giữa Công an quận Bình Thạnh với Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lê Tấn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Bị cáo Lê Tấn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại Vòng Ngọc L1 vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 164/2023/HS-ST

Số hiệu:164/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về