Bản án về tội trộm cắp tài sản số 164/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN - TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 164/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn- Tp Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 174/2020/HSST ngày 28 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 174/2020/QĐXXST- HS ngày 09/11/2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Đào Ngọc D, sinh năm 1999.

ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn S, xã S, huyện Sóc Sơn, T/p Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 10/12; Con ông Đào Thanh L và bà Nguyễn Thị K; Vợ, con: Chưa có; Theo danh chỉ bản số 000000508 do Công an huyện Sóc Sơn lập ngày 20/8/2020 thì bị cáo có 02 tiền án.

- Bản án số 273/2016/HSST ngày 30/9/2016, Tòa án nhân dân quận V, TP Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 6 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Bản án đã được xóa.

- Bản án số 28/2019/HSST ngày 03/4/2019, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội xử phạt 20 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 26/7/2020, Bản án chưa được xóa. Lần phạm tội này của D thuộc trường hợp tái phạm.

Bị tạm giam từ ngày 19/8/2020 đến nay tại Trại tạm giam số 1- Công an TP Hà Nội. Có mặt tại phiên toà.

+ Người bị hại: Anh Nguyễn Minh Q - sinh năm 1983.

Địa chỉ: Thôn s, xã s, huyện Sóc Sơn, T/p Hà Nội.

(Vắng mặt anh Q)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút Đội CSĐT hình sự - Công an thành phố Thái nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành tuần tra phát hiện và kiểm tra đối với Đào Ngọc D đang điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha màu trắng không đeo biển kiểm soát. Quá trình làm việc, D khai nhận chiếc xe máy là D vừa trộm cắp được vào chiều ngày 17/8/2020 tại xóm X, thôn S, xã S, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Cơ quan Công an thành phố Thái Nguyên đã tạm giữ chiếc xe máy và bàn giao toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan CSĐT - Công an huyện Sóc Sơn để điều tra theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra làm rõ: Khoảng 18 giờ ngày 17/8/2020, anh Nguyễn Minh Q, sinh năm 1983, trú tại thôn S, xã S, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội điều khiển xe máy Yamaha, không biển kiểm soát đến nhà chị Nguyễn Thị H ở xóm X, thôn S, xã S, huyện Sóc Sơn, Hà Nội chơi và dựng xe máy trước cửa quán bia nhà chị H. Trong thời gian này, Đào Ngọc D đi bộ đến khu vực quán bia nhà chị H thì phát hiện 01 chiếc xe máy ở trước cửa quán không có người trông giữ, chìa khoá xe vẫn cắm ở ổ khóa điện nên D đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy trên. Lợi dụng sơ hở, D tiến lại gần chiếc xe máy ngồi lên xe và mở khóa nổ máy đi lên thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. D vào một quán điện tử chơi game đến sáng ngày 18/8/2020, D điều khiển xe đi tìm địa điểm để bán xe thì bị Công an thành phố Thái Nguyên kiểm tra phát hiện.

Tại Bản kết luận định giá số 177 ngày 17/9/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sóc Sơn kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, BKS: 29DX - XXX.XX, số khung XBXX - XXXXX, số máy RLCJXBXXXCYXXXXXX, đăng ký lần đầu ngày 05/6/2012 có giá là: 2.750.000đ.

Nguồn gốc chiếc xe máy D trộm cắp, anh Q khai nhận là do một khách hàng không biết tên tuổi, địa chỉ khi mang đến sửa vào khoảng đầu năm 2018 đã để lại quán và không đến lấy. Giám định số khung số máy và tra cứu phương tiện xác định chiếc xe máy có BKS: 29DX -XXX.XX, số khung 5B94 - 129896, số máy RLCJXBXXXCYXXXXXX, đăng ký lần đầu ngày 05/6/2012 đứng tên Phạm Tiến T.

Xác minh tại Công an phường L, quận T, thành phố Hà Nội xác định: Anh Phạm Tiến T hiện vắng mặt tại địa phương, không rõ đi đâu làm gì. Làm việc với ông Phạm Văn Đ, sinh 1956, trú tại XXXA nhà B, ngõ XXX, phố M, L, T, Hà Nội là bố của anh T xác định anh T có mua chiếc xe máy Yamaha. Hiện T vắng mặt tại địa đương, gia đình không có liên lạc gì. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Sóc Sơn tra cứu chiếc xe máy không có trong hồ sơ tang vật chứng nên Cơ quan CSĐT đã đăng báo tìm chủ sở hữu chiếc xe máy trên.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Minh Q là người trực tiếp quản lý đối với chiếc xe máy trên, nếu mất xe anh Quân chịu trách nhiệm bồi thường cho khách. Anh Q không yêu cầu bị can Đào Ngọc D phải bồi thường gì về dân sự và chỉ yêu cầu được nhận lại chiếc xe máy trên.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, Đào Ngọc D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai Người làm chứng, lời khai người bị hại, Kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số: 171/CT-VKS ngày 27/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc sơn truy tố Đào Ngọc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất, nội dung vụ án giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173, Điểm s Khoản i Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Toà án, đề nghị:

Xử phạt: Đào Ngọc D từ 09 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam: 19/8/2020.

Về dân sự: Đề nghị trả lại chiếc xe máy hiệu YAMAHA có số khung XBXX - XXXXXX, số may RLCJXBXXXCYXXXXXX cho Người bị hại là anh Nguyễn Minh Q quản lý.

Không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Không có.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đánh giá toàn bộ chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng đối với việc khởi tố điều tra, truy tố bị cáo Đào Ngọc D của các cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Việc Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hoàn toàn đúng quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, ngoài ra cũng không có khiếu nại tố cáo trong quá trình tố tụng. Do vậy, các hành vi cũng như quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng đều hợp pháp. Từ đó có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 18 giờ ngày 17/8/2020, anh Nguyễn Minh Q, sinh năm 1983, trú tại thôn S, xã S, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội điều khiển xe máy Yamaha, không biển kiểm soát đến nhà chị Nguyễn Thị H ở xóm X, thôn S, xã S, huyện Sóc Sơn, Hà Nội chơi và dựng xe máy trước cửa quán bia nhà chị H. Trong thời gian này, Đào Ngọc D đi bộ đến khu vực quán bia nhà chị H thì phát hiện 01 chiếc xe máy ở trước cửa quán không có người trông giữ, chìa khoá xe vẫn cắm ở ổ khóa điện nên D đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy trên. Lợi dụng sơ hở, D tiến lại gần chiếc xe máy ngồi lên xe và mở khóa nổ máy đi lên thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. D vào một quán điện tử chơi game đến sáng ngày 18/8/2020, D điều khiển xe đi tìm địa điểm để bán xe thì bị Công an thành phố Thái Nguyên kiểm tra phát hiện.

Tại Bản kết luận định giá số 177 ngày 17/9/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự huyện Sóc Sơn kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, BKS: 29DX - XXX.XX, số khung XBXX - XXXXXX, số máy RLCJXBXXXCYXXXXXX, đăng ký lần đầu ngày 05/6/2012 có giá là: 2.750.000đ.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015, điều khoản này quy định hình phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng theo Khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố bị cáo là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào quyền sở hữu tài sản của công dân đã được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do tham lam, tư lợi, coi thường pháp luật nên đã cố tình phạm tội làm cho tình hình trị an thêm phức tạp. Việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết để răn đe giáo dục bị cáo đồng thời góp phần vào việc đấu tranh phòng ngừa đối với loại tội trộm cắp đã và đang diễn ra thường xuyên trên thực tế hiện nay.

[2] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét: Tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS. Bản thân bị cáo đã hai lần bị xét xử cùng về loại tội Trộm cắp tài sản và đều bị xử phạt tù giam nhưng vẫn coi thường pháp luật, không lấy đó làm bài học, bị cáo vừa được ra trại ngày 26/7/2020 thì đến ngày 17/8/2020 lại tiếp tục phạm tội nên phải chịu thêm tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS.

Xét thấy bị cáo chỉ có tình tiết giảm nhẹ theo điểm s Khoản 1 Điều 51 nhưng bản thân bị cáo đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản, Chỉ chưa đầy một tháng sau khi ra trại lại phạm tội và bị áp dụng tình tiết tái phạm theo điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS. Dù chiếu cố đến mấy cũng vẫn phải xử phạt bị cáo với hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng và phần bồi thường dân sự:

Chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha mà bị cáo trộm cắp của anh Nguyễn Minh Q không có biển kiểm soát, có số khung XBXX - XXXXXX, số máy RLCJXBXXXCYXXXXXX. Qua điều tra xác minh chủ sở hữu là anh Phạm Tiến T, sinh năm 1987, có địa chỉ tại Số XXXA, nhà B, ngõ XXX, phố M, L, T, Hà Nội, xe được đăng ký lần đầu ngày 05/6/2012, BKS: 29DX - XXX.XX, chiếc xe này qua tra cứu không nằm trong hồ sơ tang vật chứng. Hiện anh T vắng mặt tại địa phương nên chưa làm rõ được việc giao xe giữa anh T và anh Q nên xác định anh Q đang là Người quản lý hợp pháp vì vậy cần trả lại cho anh Q tiếp tục quản lý. Nếu sau này có tranh chấp về quyền sở hữu đối với chiếc xe trên sẽ được giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

[4] Về hình phạt bổ sung: Tại Khoản 5 Điều 173 BLHS 2015 có quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 05.000.000đ đến 50.000.000đ. Theo kết quả điều tra xác minh thì bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, nên không áp dụng đối với bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên b bị cáo Đào Ngọc D phạm tội: Trộm cắp tài sản.

- Xử phạt: Đào Ngọc D 12 (mười hai) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày 19/8/2020.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 136; Điều 331,333,336,337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Toà án:

Trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha không có biển kiểm soát, có số khung XBXX - XXXXXX, số máy RLCJXBXXXCYXXXXXX cho anh Nguyễn Minh Quân quản lý.

(Tình trạng vật chứng như biên bản bản giao giữa Công an huyện Sóc Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân TP Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân TP Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 164/2020/HS-ST

Số hiệu:164/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về