TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 14/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TD, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 09/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị V, sinh năm 1985;
HKTT: Thôn Hương Vân, xã Vệ, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1955; chồng: Nguyễn Đức T, sinh năm 1988, con: Có 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ sinh năm 2022.
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt tại phiên tòa).
Bị hại: Bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1968 (xin vắng mặt);
Địa chỉ: Thôn Hộ Vệ, xã Vệ, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 (Xin vắng mặt);
Địa chỉ: Thôn Xuân Hội, xã Vệ, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 00, ngày 28 tháng 6 năm 2023, Nguyễn Thị V, sinh năm 1985 có hộ khẩu thường trú (HKTT) tại thôn Hương Vân, xã Vệ, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave S, BKS: 99L6 - 24xx đến cửa hàng tạp hóa của bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1968 ở thôn Hộ Vệ, xã Vệ để mua đồ dùng cá nhân và gia đình. Khi đến nơi, V đỗ xe và đi vào trong quán, sau khi chọn mua một ít đồ dùng cá nhân thì V gọi bà Ch ra để thanh toán. V thấy bà Ch từ phía trong đi ra, cầm theo 01 chiếc điện thoại; sau đó để chiếc điện thoại này cắm sạc pin ở phía trên tủ kính cạnh cầu thang. Thanh toán tiền cho V xong, bà Ch tiếp tục đi ra phía ngoài tiếp khách hàng khác, điện thoại vẫn để tại vị trí sạc pin, không có ai trông giữ. Lúc này V đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại của bà Ch. V đã tiến lại vị trí để chiếc điện thoại, quan sát không thấy có ai để ý, V đã cầm lấy chiếc điện thoại bằng tay trái, đút vào túi áo chống nắng phía trước bên trái đang mặc, đi ra khỏi cửa hàng rồi đi xe về nhà.
Khi về đến nhà V kiểm tra chiếc điện thoại thì thấy là 01 chiếc điện thoại iphone 6s Plus màu ghi (xám); không có mật khẩu, đang lắp 01 sim viettel và vẫn hoạt động bình thường, bên trong điện thoại thấy có ứng dụng ngân hàng Agribank nên đã nảy sinh ý chiếm đoạt tiền trong tài khoản. V mở ứng dụng ngân hàng Agribank thấy tại màn hình đăng nhập đã có sẵn tên đăng nhập là 01 số điện thoại (dạng “096*****58”); V bấm chọn vào mục nhập mật khẩu thì thấy có mật khẩu đã lưu sẵn (dạng “mật khẩu cho agribankebanking.vn 096*****58”). V đã chọn mật khẩu này thì thấy mật khẩu tự động điền và đã đăng nhập thành công. Sau đó V vào mục tùy chọn (có hình dấu “3 gạch” ở góc trên cùng bên phải ứng dụng), tiếp tục chọn “cài đặt mật khẩu”, chọn “Đổi mật khẩu”. Sau đó V tiếp tục thao tác đổi mật khẩu của ứng dụng thành mật khẩu mới là “123456”. Sau khi đổi được mật khẩu, V tiếp tục kiểm tra thấy tài khoản mang tên “NGUYEN THI CHINH”; và đang có số tiền 48.370.000 đồng. Thấy vậy V đã thực hiện chuyển tiền từ tài khoàn này sang các tài khoản cá nhân của V để chiếm đoạt. Lần thứ nhất V đã chuyển số tiền 45.000.000 đồng đến tài khoản số 97042293908xxxxx mang tên “NGUYEN THI VINH” để nạp tiền vào tài khoản Viettel Money của V số điện thoại đăng ký là 0383379xxx (hai tài khoản này được liên kết với nhau); Lần 2 và lần 3 V lần lượt chuyển khoản các số tiền 3.000.000 đồng và 370.000 đồng đến số tài khoản ngân hàng của V số 2600205464xx tại ngân hàng Agribank. Sau khi chiếm đoạt hết tiền trong tài khoản, V đã cất giấu chiếc điện thoại để lúc thích hợp sẽ mang đi bán.
Đến khoảng 11 giờ 10 ngày 03/7/2023 V mang chiếc điện thoại iphone 6S Plus đến cửa hàng “Thế giới di động Văn Hiệp Mobile” ở khu Tiên Xá, phường Hạp Lĩnh, thành phố Bắc Ninh gặp anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1993, HKTT ở thôn Xuân Hội, xã Vệ (chủ cửa hàng) đặt vấn đề với anh H là muốn bán chiếc điện thoại iphone 6s plus; đồng thời muốn mua 01 chiếc điện thoại Samsung A02S. Qua thỏa thuận thống nhất, anh H đã đồng ý mua chiếc điện thoại iphone 6S plus với giá 1.000.000 đồng và đồng ý bán cho V 01 chiếc điện thoại Samsung A02S với giá 2.000.000 đồng. V đã giao chiếc điện thoại iphone 6S plus và trả thêm 1.000.000 đồng cho anh H thông qua tài khoản Viettel Money để mua được chiếc điện thoại Samsung A02S. Sau khi mua bán xong thì V đi về nhà. Sau đó, V đã tiêu hết số tiền 27.370.000 đồng, đến nay không nhớ đã sử dụng vào việc gì.
Ngày 12/7/2023, bà Ch đến Ngân hàng kiểm tra và phát hiện số tiền 48.370.000 đồng trong tài khoản của bà đã bị chuyển sang tài khoản khác nên đã trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD về việc bà bị mất điện thoại và số tiền trong tài khoản như trên.
Ngày 13/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD triệu tập làm việc đối với V. Tại cơ quan Công an, V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên và giao nộp số tiền 20.000.000 đồng; 01 áo chống nắng có họa tiết hoa; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S, BKS: 99L6 - 24xx và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A02S.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD tiến hành làm việc với anh Nguyễn Văn H, chủ cửa hàng “Thế giới di động Văn Hiệp Mobile”, anh H đã tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại iphone 6S plus và số tiền 1.000.000 đồng mà V thanh toán cho anh H.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 59/KL-ĐGTSTTHS ngày 01/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện TD kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, loại 64G, màu ghi (xám), số IMEI: 353295071221518. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng).
*Về Vật chứng:
- 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave S, BKS: 99L6 -24xx là chiếc xe mô tô của V sử dụng trong quá trình đến quán tạp hóa của bà Ch sau đó chiếm đoạt tài sản và mang tài sản về nhà;
- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A02S, màu xanh là điện thoại V mua bằng tiền do phạm tội mà có;
- 01 chiếc áo chống nắng có hoa văn màu trắng, đỏ xanh của V sử dụng cất giấu tài sản chiếm đoạt;
- 01 chiếc điện thoại Iphone 6S Plus 64GB, màu ghi; Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam, số tiền 21.000.000 đồng là tài sản hợp pháp của bà Ch nên ngày 09/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TD đã trả bà Ch chiếc điện thoại và số tiền trên.
* Về trách nhiệm dân sự:
Quá trình điều tra, V đã tự nguyện khắc phục hậu quả trả lại cho bà Ch số tiền 27.370.000.000 đồng là tiền trộm cắp mà bị cáo V đã chi tiêu cá nhân hết đến nay không thu hồi được; trả lại cho anh Nguyễn Văn H số tiền 2.000.000 đồng là tiền V đã sử dụng để mua 01 chiếc điện thoại Samsung A02S của anh H. Anh H và bà Ch đã nhận đủ các số tiền trên và không yêu cầu đề nghị gì khác về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo V.
Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 147/CT-VKSTD ngày 13/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, tỉnh Bắc Ninh, truy tố bị cáo V về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Quá trình xét hỏi tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TD thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ điểm c, khoản 2, Điều 173; điểm b, s, khoản 1; khoản 2, Điều 51; Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Nguyễn Thị V từ 24 tháng tù đến 28 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS.
Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) chiếc áo chống nắng có hoa văn màu trắng, đỏ xanh.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave S màu đen xám, BKS 99L6-24xx; số máy JC43E-1580667, số khung RLHJC 431BY042000, dung tích xi lanh 109, loại xe 02 bánh (xe cũ không kiểm tra máy).
Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A02S màu xanh nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết. Trong phần tranh luận:
Bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt;
Bị cáo nhận thấy bị Toà án nhân dân huyện TD xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện TD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Bị hại bà Ch, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh H đã được tống đạt hợp lệ, xin vắng mặt tại phiên toà, đã có lời khai tại Cơ quan điều tra việc vắng mặt không ảnh hưởng tới việc xét xử vì vậy Hội đồng xét xử vắng mặt theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản xác định hiện trường, biên bản dẫn giải, phù hợp với thời gian, địa điểm, lời khai bị hại, người liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:
Khoảng 16 giờ ngày 28/6/2023, tại cửa hàng tạp hóa của bà Nguyễn Thị Ch ở thôn Hộ Vệ, xã Vệ huyện TD, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Thị V có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus trị giá 2.500.000 đồng của bà Ch để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân.
Sau đó, tại nhà V ở thôn Hương Vân, xã Vệ, V đã vào ứng dụng Ngân hàng Agribank trong điện thoại của bà Ch chuyển khoản tổng số tiền 48.370.000 đồng của bà Ch sang tài khoản của V để chiếm đoạt, rồi chi tiêu hết số tiền 28.370.000 đồng còn lại 20.000.000 đồng đã giao nộp cho Cơ quan điều tra. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 50.870.000 đồng.
Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thị V đã phạm tội ''Trộm cắp tài sản'' theo điểm c, khoản 2, điều 173 BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện TD, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp cá nhân, được pháp luật bảo vệ, gây mất gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải đưa bị cáo ra xét xử kịp thời và có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:
Bị cáo là người có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản trộm cắp 1 phần đã được thu hồi trả lại cho bị hại, 1 phần đã được bị cáo bồi thường khắc phục đầy đủ cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, khoản 1; khoản 2, điều 51 Bộ luật hình sự.
Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.
Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TD là phù hợp, Hội đồng xét xử xét thấy: Cần thiết phải xử bị cáo một mức án tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung, giúp bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật.
[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích bán lấy tiền ăn tiêu, lẽ ra ngoài hình phạt chính cần phạt bổ sung một khoản tiền đối với bị cáo, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; tuy nhiên bị cáo là lao động tự do, phạm tội nhất thời, bột phát, không có tài sản riêng gì, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo trộm cắp 01 chiếc điện thoại và số tiền 48.370.000 đồng là tài sản hợp pháp của bà Ch, đến nay CQĐT đã thu hồi trả cho bà Ch, bà không có ý kiến yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét. Đối với anh H là người mua chiếc điện thoại Iphone là tài sản trộm cắp với giá 1.000.000 đồng và nhận 1.000.000 đồng của bị cáo để bị cáo mua chiếc điện thoại Sam sung với giá 2.000.000 đồng, nay bị cáo đã trả cho anh H số tiền 2.000.000 đồng anh H không có ý kiến yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:
Bị cáo tự nguyện giao nộp 01 (một) chiếc áo chống nắng có hoa văn màu trắng; đây là đồ dùng, trang phục của bị cáo sử dụng đi trộm cắp tài sản, không có giá trị, bị cáo không có ý kiến gì nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung A02S bị cáo mua bằng tiền do trộm cắp mà có tuy nhiên bị cáo đã đã trả cho anh H số tiền 2.000.000 đồng và bồi thường cho bị hại đầy đủ nên là tài sản của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Đối với 01 chiếc xe mô tô Honda Wave S màu đen xám là tài sản của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
[7] Liên quan trong vụ án này:
Đối với Nguyễn Văn H là chủ cửa hàng “Thế giới di động Văn Hiệp Mobile”: Kết quả điều tra xác định, khi V đến cửa hàng “Thế giới di động Văn Hiệp Mobile” để bán chiếc điện thoại Iphone 6s Plus, V đã nói chiếc điện thoại là của V. Anh H nghe vậy đã tin tưởng và đồng ý mua chiếc điện thoại; anh H không biết việc chiếc điện thoại này do V trộm cắp có được nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh H mà tiến hành giáo dục nhắc nhở đối với anh H là đúng quy định pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị V phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Căn cứ điểm c, khoản 2, Điều 173; điểm b, s, khoản 1; khoản 2, Điều 51; Điều 38 BLHS. Các Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Nguyễn Thị V 28 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
*Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS; điều 106 BLTTHS.
Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) chiếc áo chống nắng có hoa văn màu trắng, đỏ xanh.
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2023/HS-ST
Số hiệu: | 16/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về