Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀNG ĐỊNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 16/2022/HS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HS ngày 10tháng 05năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo:

Hoàng Văn T, sinh ngày 12 tháng 01 năm 1991 tại huyện T1, tỉnh Lạng Sơn; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã Q, huyện T1, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn D và bà Nông Thị T2; Vợ, con: Chưa có; tiền án:có 01 tiền án cụ thể: Tại Bản án số 140/2020/HS-ST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt Hoàng Văn T 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Bị cáo chấp hành xong ngày 10/6/2021; căn cứ Điều 70 Bộ luật hình sự, bị cáo Hoàng Văn T chưa được đương nhiên xóa án tích;tiền sự: Không có; nhân thân: Đã bị kết án cụ thể tại bản án số 29/2015/HS-ST ngày 11/11/2015 của Tòa án nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn xử phạt Hoàng Văn T 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản và Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 138 và khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; đối chiếu quy định pháp luật, xác định bị cáo đã được xóa án tích, bị cáo chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 17/02/2022 cho đến nay, có mặt.

- Bị hại: Ông Hoàng Văn D, sinh năm 1963. Trú tại: Thôn K, xã Q, huyện T1, tỉnh Lạng Sơn.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Minh T3, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn N, xã Đ, huyện T1, tỉnh Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/02/2022 Công an xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn tiếp nhận tố giác tội phạm của ông Hoàng Văn D về việc con trai của ông là Hoàng Văn T, lợi dụng sơ hở đã lén lút lấy trộm xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Sirius, mang biển kiểm soát (BKS): 12T1-170.75 của gia đình đem đi bán,đề nghị Cơ quan điều tra xử lý theo Pháp luật.

Tiếp nhận nguồn tin, Công an xã Quốc Khánh và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tràng Định tiến hành xác minh làm rõ, cùng ngày đã tạm giữ xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu trắng - đen, BKS 12T1-170.75; Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012499, biển số đăng ký xe 12T1-170.75 do Công an huyện Tràng Định cấp ngày 12/4/2019; Giấy hẹn cầm đồ của cửa hiệu cầm đồ Nguyễn Minh T3 với người cầm đồ Hoàng Văn T.

Xét thấy có dấu hiệu tội trộm cắp tài sản, đã khởi tố vụ án, bị cáo, bắt tạm giam Hoàng Văn T để điều tra; tại cơ quan điều tra bị cáo Hoàng Văn T khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 10/02/2022, lợi dụng lúc gia đình vắng người ở nhà, T đi vào phòng ngủ của ông Hoàng Văn D (là bố đẻ) lục tìm, lấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô xe máy mang tên Hoàng Văn D, Biển số đăng ký 12T1-170-75, Công an huyện Tràng Định cấp ngày 12/4/2019 để ở trong ví dưới gối đầu giường, sau đó đi ra phòng khách lấy chìa khóa xe môtô để trên bàn thờ rồi đi đến bếp nhà anh trai ruột Hoàng Văn M ở sát cạnh với nhà của T và bố mẹ để lấy trộm chiếc xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, biển kiểm soát (BKS) 12T1 - 170.75 của ông D đang dựng ở trong nhà bếp; khi vào đến cửa nhà bếp, T quan sát thấy ông D bế cháu Hoàng Bảo N đang quay mặt vào bếp lửa, lợi dụng thấy ông D không để ý, T lén lút, đi nhẹ nhàng vào bếp, đến dắt lùi xe môtô dựng ở khu vực gần cửa ra ngoài cửa khoảng 03m - 04m đến vị trí khuất tầm nhìn của ông D, bật khóa điện nổ máy xe rồi điều khiển xe môtô đi đến hiệu cầm đồ của anh Nguyễn Minh T3 nói dối với anh T3 là gia đình có việc gấp cần tiền nên bố đẻ của T đã giao xe và giấy tờ xe cho T mang đi cầm cố lấy tiền và hẹn sau 05 ngày sẽ quay lại trả tiền để lấy lại xe. Anh T3 xem tình trạng xe và giấy tờ liên quan đã nhận cầm cố xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, BKS: 12T1 - 170.75 cùng giấy đăng ký xe do T đem đến, số tiền thỏa thuận cầm cố là 4.000.000 đồng. Sau khi cầm cố xe được tiền, T đón xe khách đi đến bến xe phía bắc thuộc huyện Cao Lộc, Lạng Sơn tìm mua ma túy với một người đàn ông (T không biết tên, địa chỉ cụ thể) để mua 01gói ma túy Heroine giá 200.000 đồng rồi đem sử dụng hết; sau đó, đến thành phố Lạng Sơn thuê nhà nghỉ và hàng ngày T đều đi đến khu vực bến xe phía bắc mua ma túy sử dụng và chi tiêu cá nhân hết số tiền cầm cố xe có được. Đến ngày 15/02/2022, đón xe khách đi về thị trấn Thất Khê, quay lại cửa hiệu cầm đồ của anh T3 đề nghị lấy thêm tiền cầm cố chiếc xe môtô, khi anh T3 không đồng ý thì T xin gia hạn thêm 05 ngày nữa sẽ chuộc xe rồi đón xe ôm đi về nhà, khi ông D hỏi xe mô tô thì T thừa nhận lấy trộm xe môtô đem đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 08/KL-HĐĐGTS ngày 17/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn đã kết luận: 01 Chiếc xe môtô YAMAHA SIRIUS, biển kiểm soát 12T1-170.75 trị giá 11.000.000đồng.

Cáo trạng số 17/CT-VKSTĐ ngày 27 tháng 4 năm 2022 truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáophù hợp với lời khai của người bị hại là ông Hoàng Văn D; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Minh T3.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Hoàng Văn D đã trả lại cho anh Nguyễn Minh T3 số tiền 4.000.000 đồng thay cho bị cáo, ông D không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét. Anh Nguyễn Minh T3 yêu cầu bị cáo Hoàng Văn T bồi thường thêm 5.000.000 đồng, tuy nhiên tại đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Minh T3 đã rút lại yêu cầu bồi thường trên.

Về vật chứng của vụ án: Đã trả lại giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012499 cùng xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu trắng-đen, BKS: 12T1-170.75, số máy: E3X9E543439, số khung: 3210JY229626 (xe cũ đã qua sử dụng) cho ông Hoàng Văn D là chủ sở hữu trong giai đoạn điều tra.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T về tội: Trộm cắp tài sản, căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng: Xác nhận Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 012499 cùng xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu trắng-đen, Biển kiểm soát: 12T1-170.75, số máy: E3X9E543439, số khung: 3210JY229626 (xe cũ đã qua sử dụng) cho ông Hoàng Văn D là chủ sở hữu.

Tại phần tranh luận không ai có ý kiến gì tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáođể bị cáo yên tâm cải tạo, đểsớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của những Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòahôm nay bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ ánkhông có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Việc vắng mặt của anh Nguyễn Minh T3. Hội đồng xét xử nhận thấy anh Nguyễn Minh T3 có lời khai được lưu xong trong hồ sơ vụ án, không có yêu cầu bồi thường thiệt hại. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 292; Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử xác định: Khoảng14 giờ ngày 10/02/2022, tại nhà ở của ông Hoàng Văn D và anh Hoàng Văn M tại thôn K, xã Q, huyện T1, tỉnh Lạng Sơn. Hoàng Văn T đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 01 xe môtô nhãn hiệu YAMAHA SIRIUS, màu trắng-đen, BKS: 12T1-170.75 của ông Hoàng Văn D (là bố đẻ của Tuân), đem đi cầm cố lấy tiền tiêu chi cá nhân; định giá xe mô tô của ông D bị Tuân trộm cắp có giá trị là 11.000.000 đồng. Như vậy bị cáo Hoàng Văn T phạm tội:Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Về tính chất, hậu quả mức độ của hành vi phạm tội: Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức được hành vi của mình nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý, hành vi của bị cáo xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự, làm hoang mang lo lắng trong một bộ phận đời sống dân cư trên địa bàn.

[5] Về nhân thân:Bị cáo có nhân thân xấu, do đã 2 lần bị xét xử hình sự.

[6] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Hoàng Văn T đã 02 lần bị kết án, bản án gần đây nhất là bản án 140/2020/HS-ST ngày 17/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo có tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8]Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Hoàng Văn D đã trả lại cho anh Nguyễn Minh T3 số tiền 4.000.000 đồng thay cho bị cáo, ông D không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét. Anh Nguyễn Minh T3 yêu cầu bị cáo Hoàng Văn T bồi thường thêm 5.000.000 đồng, tuy nhiên tại đơn xin xét xử vắng mặt anh T3 đã rút lại yêu cầu bồi thường số tiền trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo không có tài sản riêng và thu nhập ổn định, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy. Do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Đối với Nguyễn Minh T3 nhận cầm cố xe môtô với bị cáo T, không biết là tài sản phạm tội mà có nên không xem xét xử lý hình sự trong vụ án; việc nhận cầm cố xe mô tô không có giấy ủy quyền hợp lệ của người chủ tài sản cho người mang tài sản đi cầm cố đã vi phạm điểm l, khoản 3, Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ về việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tràng Định đã Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mức tiền phạt: 7.500.000 đồng.

[11]Đối với người đàn ông bán ma túy cho Hoàng Văn T tại khu vực Bến xe phía bắc Lạng Sơn thuộc thị trấn Cao Lộc, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn do T không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét xử lý.

[12] Đối với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về đường lối xử lý vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.Những vấn đề khác với nhận định trên của Hội đồng xét xử, không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, cho bị cáo đi cải tạo tập trung để bị cáo nhận thức được hành vi của mình, đồng thời giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời răn đe những ai có ý định phạm tội tương tự.

[14] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo khoản 2 Điều 135, khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23; Điều 26; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại,người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1Điều 51;điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015. Khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 23; Điều 26; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2.Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù, tính từ ngày 17 tháng 02 năm 2022.

3.Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4.Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2022/HS-ST

Số hiệu:16/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tràng Định - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về