Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 16/2021/HS-ST NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn A, sinh năm 1995; Nơi sinh: huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang;

Nơi cư trú: Khu vực T, phường TA, quận O, thành phố C.

Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1976 và bà Võ Thị Kim H, sinh năm 1978; Anh chị em ruột: 03 người; Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam: không, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

Người bị hại: Bùi Tấn Đ, sinh năm 2001.

Địa chỉ: ấp Tân Phú A, thị trấn Búng T, huyện Phụng H, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ 20 ngày 22/01/2021, Công an Đồn khu Công nghiệp T, huyện C, tỉnh H tiếp nhận nguồn tin về tội phạm của anh Bùi Tấn Đ, sinh năm 2001, nơi cư trú: ấp T, thị trấn B, huyện P, tỉnh H về việc vào khoảng 16 giờ ngày 22/01/2021, anh Đ điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, biển kiểm soát 65B1-650.90 đi đến bến cảng khu Công nghiệp T, thuộc ấp P, xã T, huyện C, tỉnh H để đi làm thuê. Khi đến bến cảng anh Đ gặp Nguyễn Văn A hỏi chỗ để dựng xe môtô, A chỉ chỗ cho anh Đ. Sau khi dựng xe, anh Đ lên xe tải đi lấy hàng ở Rạch Gòi. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, anh Đ quay lại bến cảng thì phát hiện xe môtô đã bị mất nên trình báo Công an.

Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng 18 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn A, sinh năm 1995, nơi cư trú: Khu vực T, phường TA, quận O, thành phố C là người đang trông coi kho hàng ở khu công nghiệp T, do muốn có xe chở bạn gái đi chơi, nên A nảy sinh ý định lấy trộm xe môtô của anh Đ đậu gần kho hàng, thấy không có ai trông coi xe nên A ngắt điện camera tại cảng, rồi lấy một chìa khóa cũ bỏ trong kho tại cảng mở khóa xe anh Đ thì mở được. Lấy xe anh Đ xong, A điều khiển chạy lên bệnh viện Đa khoa Trung ương C gửi tại bãi xe, rồi đi xe honda ôm về lại cảng. Sáng ngày 23/01/2021, Đồn Công an khu Công nghiệp T mời Nguyễn Văn A đến làm việc nhưng A không thừa nhận hành vi trộm cắp xe môtô biển kiểm soát 65B1-650.90 của anh Đ.

Được sự vận động của người thân, đến 15 giờ 40 phút ngày 23/01/2021, Nguyễn Văn A đến Đồn Công an khu Công nghiệp Tân Phú Thạnh đầu thú khai nhận hành vi trộm cắp xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, biển kiểm soát 65B1-650.90 của anh Đ và giao nộp lại xe môtô cho Cơ quan Công an. Đối với chìa khóa dùng mở xe anh Đ, quá trình di chuyển A đã làm rớt mất nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu hồi được (bút lục 18-23).

Vật chứng thu giữ: Một xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, biển kiểm soát 65B1-650.90.

Tại Kết luận định giá số 08/KL.ĐGTS ngày 29/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện Châu Thành A kết luận một xe môtô biển kiểm soát 65B1-650.90, nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter trong vụ “Trộm cắp tài sản” có giá trị là 17.550.000 (Mười bảy triệu năm trăm năm mươi nghìn) đồng.( bút lục 52-54).

Ngày 30/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 13/QĐ-CSĐT-ĐTTH trả lại: Một xe môtô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, biển kiểm soát 65B1-650.90 cho anh Bùi Tấn Đ (bút lục 102-103).

Tại Cáo trạng số 23/CT-VKS-HCTA ngày 31/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên Cáo trạng truy tố, đề nghị áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ Luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 18 – 24 tháng.

Về tang vật chứng: Không có vật chứng cần xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không có yêu cầu nên không buộc bị cáo phải bồi thường.

Án phí buộc bị cáo chịu theo quy định.

Bị cáo Nguyễn Văn A đã khai nhận về hành vi của mình như nội dung nêu trên và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn A khai nhận hành vi của mình như Cáo trạng đã nêu. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với các tài liệu, chứng cứ khách quan khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận vào ngày 22/01/2021, tại bến cảng khu Công nghiệp T, thuộc ấp P, xã T, huyện C, tỉnh H, lợi dụng lúc không có người trông coi, Nguyễn Văn A đã lén lút lấy trộm một môtô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, biển kiểm soát 65B1-650.90 của anh Bùi Tấn Đ để sử dụng vào mục đích cá nhân với giá trị là 17.550.000 đồng (Mười bảy triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) nên hành vi của bị cáo đã vi phạm tội trộm cắp tài sản quy đinh tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Không có Về tình tiết giảm nhẹ: Đây là lần đầu tiên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn và thể hiện sự ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Ngoài ra bị cáo Nguyễn Văn A tự nguyện đầu thú và bị hại có đơn yêu cầu không khởi tố đối với bị cáo do đó xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều, Khoản, Điểm; tội danh; mức hình phạt; án phí… là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét về tính chất hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân tốt, chưa từng có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa gây ra hậu quả gì nghiêm trọng, người bị hại không có yêu cầu bồi thường và có đơn xin không khởi tố đối với bị cáo, bản thân bị cáo cũng được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng thỏa đáng. Do đó Hội đồng xét xử tuyên xử bị cáo hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

[6] Về vật chứng: Không có vật chứng cần xử lý [7] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 09 (chín) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng, được tính kể từ ngày tuyên án 22/6/2021.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường TA, quận O, thành phố C giám sát giáo dục trong thời gian thử thách Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ Luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống Đ hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2021/HS-ST

Số hiệu:16/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về