Bản án về tội trộm cắp tài sản số 160/2020/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 160/2020/HSST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 154/2020/HSST ngày 21 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 đối với bị c áo:

Lê Tuấn H; sinh ngày: 15/7/2001, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: Không đăng ký; chỗ ở: 1/2/49 đường P, phường Q, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tuấn N và bà Lê Thị H; vợ, con: Chưa có; nhân thân: Ngày 21/4/2020, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 21 th áng; tiền án: Ngày 29/5/2018 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm về tội “Cướp giật tài sản”; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/08/2020; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Trần Thị Mỹ L, sinh năm: 1976; trú tại: 15 đường V, phường Q, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1964; địa chỉ: 11M, KV5, tổ 46B, hẻm 9, QL91B, phường H, quận N, Thành phố Cần Thơ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 31/01/2020, sau khi chơi bắn cá tại tiệm game ở địa chỉ số 127/4 N, phường T, quận B bị thua hết tiền thì Lê Tuấn H đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài. H chuẩn bị sẵn 01 tua vít đầu dẹp, cán nhựa màu đen, dài khoảng 20 cm rồi đi bộ hướng về khu vực quận T để tìm tài sản. Khoảng 23 giờ, khi đến trước nhà số 15 V, phường Q, quận T do bà Trần Thị Mỹ L làm chủ thì H thấy cửa khóa ngoài, trong nhà tắt đèn, không có ai trông coi nên H dùng tua vít phá ổ khóa, mở cửa vào trong nhà. H đi vào căn phòng phía sau (cạnh phòng khách) thấy một cái bàn học sinh đặt phía bên trái nên mở các hộc bàn để tìm tài sản. H lấy được 01 ví màu nâu trong hộc bàn thứ nhất và số tiền 1.800.000 đồng ở hộc bàn thứ hai rồi rời khỏi hiện trường. Khi đi đến bên hông nhà số 112 L, phường Q, quận T, H kiểm tra trong ví thì thấy một số giấy tờ tùy thân nên H vứt bỏ ví, giấy tờ cùng tua vít vào thùng rác đặt cạnh nhà còn số tiền vừa trộm được thì H đã tiêu xài hết.

Ngày 05/02/2020, khi H đang chơi game bắn cá tại tiệm game ở địa chỉ số 127/4 N, phường T, quận B thì bị Công an quận Tân Bình kiểm tra hành chính và H đã khai nhận thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại nhà số 15 V, phường Q, quận T nên Công an quận Tân Bình chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Phú xử lý.

Vật chứng:

- 01 tua vít đầu dẹp, cán nhựa màu đen, dài khoảng 20 cm, hiện không thu giữ được.

- 01 ổ khóa hiệu Mastery Zsolex, hiện bà L đã vứt bỏ, không thu hồi được.

- 01 ví da không rõ nhãn hiệu, H đã vứt bỏ, không thu hồi được.

- 01 xe gắn máy dạng Wave, biển số 65H7 – 1526 (số máy:

VTT1D52FMH-134670, số khung: VTTDCH0A4TT-134670). Qua xác minh được biết bà Nguyễn Thị N (ngụ tại: 11M, KV5, tổ 46B, hẻm 9, QL91B, phường H, quận N, Thành phố Cần Thơ) đứng tên chủ sở hữu. Năm 2014 bà N đưa xe cho con là Trần Văn C để đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, C đã bỏ đi bà N không liên lạc được. H khai mua lại của 01 người thanh niên tên Đ (chưa rõ lai lịch) tại tiệm game bắn cá vào tháng 6/2019 giá 800.000 đồng.

- 01 điện thoại di động hiệu Mobistar; 01 điện thoại di động hiệu Mobell, H khai mua để sử dụng liên lạc cá nhân.

Tại bản cáo trạng số 152/CT-VKSQTP ngày 20 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố bị cáo Lê Tuấn H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Tuấn H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bản án số 57/2018/HSST ngày 29/5/2018, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý phần trách nhiệm dân sự và vật chứng.

- Bị cáo Lê Tuấn H đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không phát biểu lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 23 giờ, ngày 31/01/2020, Lê Tuấn H có hành vi dùng tua vít phá ổ khóa tại địa chỉ nhà số 15 V, phường Q, quận T do bà Trần Thị Mỹ L làm chủ, lấy trộm 01 chiếc ví da bên trong có một số giấy tờ tùy thân và số tiền 1.800.000 đồng thì bị bắt giữ.

Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Tuấn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo là người đã bị kết án về tội “Cướp giật tài sản” theo Điều 171 Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, lén lút chiếm đoạt số tiền 1.800.000 đồng, nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú truy tố bị cáo Lê Tuấn H theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu; vào ngày 21/4/2020, bị Tòa án nhân dân quận T ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 21 tháng; ngày 29/5/2018 bị Tòa án nhân dân quận T xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm về tội “Cướp giật tài sản” . Bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách nên buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 02 năm tù của bản án số 57/2018/HSST ngày 29/5/2018 của Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, tổng hợp với hình phạt của bản án này, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của hai bản án theo qui định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự

[5] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bà Trần Thị Mỹ L không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 xe gắn máy dạng Wave, biển số 65H7 – 1526 (số máy: VTT1D52FMH-134670, số khung: VTTDCH0A4TT-134670). Qua xác minh do bà Nguyễn Thị N đứng tên chủ sở hữu. Năm 2014 bà N giao xe cho con là Trần Văn C để đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, C đã bỏ đi bà N không liên lạc được. Bị cáo H khai mua lại của 01 người thanh niên tên Đ (chưa rõ lai lịch) tại tiệm game bắn cá vào tháng 6/2019 giá 800.000 đồng. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người quản lý sử dụng hợp pháp chiếc xe gắn máy nói trên, cho thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng, nếu không tìm được người quản lý sử dụng hợp pháp chiếc xe gắn máy nói trên thì trả lại cho bà Nguyễn Thị N theo qui định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ 01 điện thoại di động hiệu Mobistar và 01 điện thoại di động hiệu Mobell, Lê Tuấn H khai mua để sử dụng liên lạc cá nhân, xét không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo Hải theo qui định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Án phí: Bị cáo Lê Tuấn H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

[2] Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị Lê Tuấn H 01 (một) năm tù Áp dụng khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 Buộc bị cáo Lê Tuấn H phải chấp hành hình phạt 02 (hai) năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 57/2018/HSST ngày 29/5/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tổng hợp hình phạt của bản án số 57/2018/HSST ngày 29/5/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh với hình phạt của bản án này. Buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 8 năm 2020

[3] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Bà Trần Thị Mỹ L có quyền khởi kiện vụ án dân sự khác đối với bị cáo Lê Tuấn H để yêu cầu trả lại tiền theo qui định của pháp luật.

[4] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Phú thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong hạn 06 tháng để tìm người quản lý, sử dụng hợp pháp chiếc xe gắn máy mang biển số 65H7 – 1526; số máy: VTT1P52FMH134670; số khung: VTTDCH0A4TT134670, quá hạn mà không tìm được thì trả cho bà Nguyễn Thị N chiếc xe gắn máy nói trên.

- Trả cho bị cáo Lê Tuấn H 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobistar, số Imel 357550421347082; 01 (một) điện thoại di động hiệu Mobell, số Imel 812896030146825.

(Vật chứng hiện đang nhập kho theo Phiếu nhập kho vật chứng số 46/PNK ngày 24/02/2020 của Công an quận Tân Phú)

[5] Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Lê Tuấn H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Tuấn H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại;

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 160/2020/HSST

Số hiệu:160/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về