Bản án về tội trộm cắp tài sản số 158/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 158/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 141/2023/HSST ngày 09 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2023/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

DƯƠNG THỊ U, tên gọi khác: không, sinh năm 1972 tại thành phố Hồ Chí Minh, Giới tính: nữ.

Nơi đăng ký HKTT: 207 Lê Thị X, phường 11, quận Y, thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi tạm trú và chỗ ở hiện nay: khu phố W, thị trấn Z, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo;

Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 01/12.

Con ông Dương VĂn B (chết); Mẹ: Dương Thị H1 (chết) Chị em ruột: 03 người, bị cáo là con thứ ba trong gia đình.

Chồng: Hồ Quốc D, sinh năm 1975 (hiện đang chấp hành án tại trại giam Huy Khiêm; có 01 người con sinh năm 2012.

Tiền án; Tiền sự: không.

Nhân thân:

+ Năm 1990 bị Tòa án nhân dân Quận Y, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo bản án số 108/HSST ngày 09/6/1990;

+ Năm 1992 bị Tòa án nhân dân Quận Y, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 15 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo bản án số 282/HSST ngày 20/11/1992;

+ Năm 1994 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản của công dân" theo bản án số 985/HSST ngày 08/9/1994;

+ Năm 1997 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản của công dân" theo bản án số 114/HSST ngày 25/01/1997.

+ Năm 2005 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội "Cướp tài sản" theo bản án số 43/2005/HSST ngày 10/01/2005. Đến ngày 25/4/2010 chấp hành xong hình phạt tù.

+ Ngày 12/9/2023, bị Công an huyện H, tỉnh Bình Thuận xử phạt hành chính với số tiền 2.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản ngày 11/01/2023 tại khu phố O, thị trấn Z, huyện H theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPHC (ĐTTH). Bị cáo đã đóng phạt vào ngày 18/9/2023.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

- Bị hại: bà BH, sinh năm 1991; Địa chỉ: thôn E, xã I, huyện R, tỉnh Bình Thuận. (vắng mặt)

- Người làm chứng: bà NLC 1, sinh năm 2007; Địa chỉ: khu phố O, thị trấn Z, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Người đại diện theo pháp luật: bà Nguyễn Vy N1, sinh năm 1994; Địa chỉ: khu phố O, thị trấn Z, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền để tiêu xài cá nhân, trong khoảng thời gian làm nhân viên tại quán Nướng Ngói thuộc khu phố O, thị trấn Z, huyện H, tỉnh Bình Thuận, Dương Thị U đã nhiều lần lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt tiền của chủ quán là bà BH (sinh năm 1991, trú thôn E, xã I, huyện R, tỉnh Bình Thuận). Cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: vào chiều ngày 10/01/2023, lợi dụng lúc bà BH đang ở trước quán để tỉa bông, Dương Thị U đã lẻn vào phòng ngủ của bà BH và lấy trộm số tiền 2.000.000 đồng gồm 04 tờ tiền polime mệnh giá 500.000 đồng ở trong túi xách của bà BH. Số tiền này U đã tiêu xài hết.

Lần thứ hai: vào chiều ngày 11/01/2023, Dương Thị U lợi dụng sơ hở của bà BH, lén lút lấy trộm số tiền 70.000 đồng gồm 02 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng và 03 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng trong túi quần Jean của bà BH treo trước cửa phòng ngủ. Số tiền này U đã tiêu xài hết.

Ngày 16/5/2023, bà BH đã làm đơn tố cáo hành vi của Dương Thị U, đồng thời giao nộp cho Công an thị trấn Z 03 đoạn video trích xuất từ camera tại quán ghi lại hành vi trộm cắp tài sản của Dương Thị U.

Về trách nhiệm dân sự: bị cáo Dương Thị U đã bồi thường số tiền 2.070.000 (hai triệu không trăm bảy mươi nghìn) đồng cho bị hại BH. Bị hại đã nhận đủ số tiền và không có yêu cầu gì khác.

Tại Cáo trạng số 144/CT-VKSHTN-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố bị cáo Dương Thị U về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Dương Thị U như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Dương Thị U phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điểm b, s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Dương Thị U từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù. thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về xử lý vật chứng: đối với 03 đoạn video được trích xuất từ Camera tại quán Nướng ngói do bị hại giao nộp, cần tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không đề cập xử lý.

Tại phiên tòa: Bị cáo Dương Thị U thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

1.1 Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

1.2 Bị hại BH, người làm chứng NLC 1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, sự vắng mặt của bị hại BH, người làm chứng NLC 1 không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

[2] Với các tài liệu, chứng cứ đã được xác minh thu thập có tại hồ sơ vụ án, đối chiếu với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa là phù hợp, có đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo Dương Thị U là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên để có tiền tiêu xài cá nhân, vào ngày 10/01/2023 tại quán Nướng Ngói thuộc khu phố O, thị trấn Z, huyện H, tỉnh Bình Thuận, bị cáo Dương Thị U lợi dụng sự sở hở, mất cảnh giác trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, đã lén lút trộm cắp số tiền 2.000.000 đồng của bà BH.

Hành vi nêu trên của bị cáo Dương Thị U là cố ý, đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát huyện H đối với bị cáo Dương Thị U là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Dương Thị U:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Dương Thị U thành khẩn khai báo; bị cáo đã khắc phục bồi thường hậu quả cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Dương Thị U được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Mặc dù trong vụ án này bị cáo Dương Thị U có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; tuy nhiên xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo Dương Thị U là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu về các tội xâm phạm sở hữu, do đó cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời góp phần răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa vắng mặt bị hại BH, tuy nhiên tại hồ sơ thể hiện bị cáo Dương Thị U và bị hại đã thống nhất thỏa thuận xong về phần bồi thường dân sự và không có yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với lần trộm cắp số tiền 70.000 đồng vào ngày 11/01/2023 của bị cáo Dương Thị U, thời điểm thực hiện hành vi của bị cáo Dương Thị U không có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ cho Công an huyện H ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với bị cáo Dương Thị U về hành vi trộm cắp tài sản với số tiền phạt là 2.500.000 đồng và bị cáo đã nộp phạt xong là có căn cứ.

Đối với 03 đoạn video do bị hại BH giao nộp, cần tiếp tục lưu giữ tại hồ sơ vụ án để làm căn cứ giải quyết vụ án.

[6] Về án phí: Bị cáo Dương Thị U phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Dương Thị U phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Dương Thị U 09 (chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Dương Thị U phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16.11.2023). Bị hại vắng mặt báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 158/2023/HS-ST

Số hiệu:158/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Bắc - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về