Bản án về tội trộm cắp tài sản số 158/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 158/2023/HS-ST NGÀY 09/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 8 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 192/2023/TLST- HS ngày 14 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2023/QĐXXST - HS ngày 26/7/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trn Anh T (tên gọi khác: không), sinh năm: 1979, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số 70B L L, Phường B T, Quận a, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; họ và tên bố: Không rõ; họ và tên mẹ: Không rõ; họ và tên mẹ nuôi: Võ Thị N; sinh năm: 1932; họ và tên vợ: Đỗ Thị Thúy V; sinh năm: 1991; bị cáo có 01 người con, sinh năm 2017; chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không;

Tiền án: Bản án số 172/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đ T xử phạt Trần Anh T 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 23/7/2022, đóng án phí vào ngày 22/6/2022;

Tiền sự: Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày 09/01/2023 của Ủy ban nhân dân xã L H, huyện Đ T, tỉnh Lâm Đồng quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Trần Anh T trong thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chấp hành xong vào ngày 21/3/2023;

Nhân thân:

+ Ngày 08/5/1996, Trần Anh T bị Công an Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh bắt về hành vi “Cướp tài sản của công dân”, tra cứu tại sổ lưu trữ của Công an Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh không có lưu hình thức xử lý;

+ Bản án số 97/HSST ngày 04/5/1998 của Tòa án nhân dân Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Trần Anh T 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29/10/1998, đóng án phí vào ngày 19/6/1998;

+ Bản án số 10/HSST ngày 01/02/2000 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt Trần Anh T 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 07/9/2000, đóng án phí vào ngày 28/10/2000;

+ Bản án số 86/HSPT ngày 16/6/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xử phạt Trần Anh T 4 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 15/01/2014, thi hành xong bồi thường dân sự và đóng án phí vào ngày 13/8/2010;

+ Quyết định số 66/QĐ-TA ngày 04/02/2015 của Tòa án nhân dân quận T Đ, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Trần Anh T trong thời gian 24 tháng, chấp hành xong vào ngày 26/12/2016;

+ Bản án số 101/HSST ngày 16/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt Trần Anh T 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/9/2018, đóng án phí vào ngày 03/11/2018;

Bị cáo bị bắt, tạm gian ngày 21/3/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đà Lạt. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bị hại: Anh Lý Chí C, sinh năm 2002;

Hộ khẩu thường trú: số 6A, Lô 13, đường Ph Th H, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi ở hiện tại: số 265/8, đường B T X, Phường H, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đổng. Vắng mặt tại phiên toà.

- Người liên quan: Anh Phạm Đình B, sinh năm 1985.

Hộ khẩu thường trú: số 10, đường T N D, Phường F, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

Nơi ở hiện tại: số 38/65, đường H T C C, Phường D, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Anh T có 01 tiền án về tội: Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, là đối tượng sử dụng ma túy và không có việc làm ổn định. Để có tiền tiêu xài và mua ma túy, T nảy sinh ý định tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định này, khoảng 00 giờ 30 ngày 21/03/2023, T điều khiển xe mô tô hiệu Medal biển số 38K1-0320 đi tìm nhà dân sơ hở trộm cắp tài sản. Khi đi đến Chung cư số 6 Huyền Trân Công Chúa, Phường F, thành phố Đ, T để xe phía dưới chung cư, đi bộ ra phía sau căn hộ L1-6-5 thì thấy cửa sau của căn hộ này khép hờ, được ngăn cách bằng một cánh cửa khác ở hành lang. T trèo lên hành lang tường, đi tới mở cửa sau căn hộ, đột nhập vào phòng bếp của căn hộ, T quan sát thấy không có người, trên bàn gỗ trong phòng bếp có để một túi xách màu kem không khóa, T mở túi xách lấy được 1.200.000 đồng, 01 điện thoại Nokia nút bấm màu đỏ, 01 đồng hồ màu xanh dương có khắc chữ Guess và 01 đồng hồ màu xanh lá cây có khắc chữ Calvin Klein, T bỏ tất cả số tài sản trên vào túi quần bên trái. Sau đó, T tiếp tục đi ra phòng khách thì thấy trên ghế salong có người đang nằm ngủ, trên bàn có để một chiếc laptop màu xám nhãn hiệu Apple, T đi đến lấy chiếc laptop bỏ vào trong áo khoác trước bụng rồi tiếp tục tiến tới vị trí ghế salong thấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax màu xanh dương để gần đầu người đang ngủ, T lấy chiếc điện thoại này bỏ vào túi quần bên phải rồi đi ra ngoài theo hướng vào ban đầu. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 38K1-0320 chạy tới căn nhà hoang ở khu vực đường Ngô Thì Sỹ, Phường D, thành phố Đ để ngủ. Đến khoảng 8 giờ 30 phút cùng ngày, T sử dụng số tiền 1.200.000 đồng trộm cắp được tiêu xài cá nhân và mua ma túy hết 1.050.000 đồng, số tiền còn lại T cất giấu trong người và đi đến nhà của Phạm Đình B ở tại 38/65 H T C C, Phường D, Đ gửi nhờ B sạc điện thoại di động hiệu Nokia nút bấm màu đỏ ở nhà B rồi rủ B đem số tài sản trộm cắp được còn lại đi tiêu thụ, B đồng ý. Khi đến thị trấn L N, huyện Đ T chưa kịp bán tài sản thì T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ bắt giữ cùng tang vật của vụ án. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ, Trần Anh T đã khai nhận toàn bộ nội dung sự việc như trên. (BL: 64 – 67, 70 – 73, 76 – 81, 86 – 95) Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) xe mô tô hiệu MEDAL dạng Wave biển số 38K1-0320 màu đỏ, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng;

- 01 (một) điện thoại Iphone 13 Promax màu xanh dương 256GB số Imel: 356189754723147 đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng;

- 01 (một) Laptop Apple loại Macbook Air M1 8Gb 2020, 13 inch, số Seri: FVFHKBS1Q6L4 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng;

- 01 (một) đồng hồ có khắc chữ Guess viền mặt đồng hồ bằng nhựa màu xanh dương, dây bằng Silicon màu xanh dương đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng;

- 01 (một) đồng hồ có khắc chữ Calvin Klein Men Quartz Watch, mặt đồng hồ màu xanh lá cây, dây bằng da màu xanh lá cây, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đỏ nút bấm đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng.

- 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng). (BL: 74, 83) * Bị hại: anh Lý Chí C– sinh năm: 2002; Nơi thường trú: số 6A Lô 13 P T H, Phường D, Quận H, TP Hồ Chí Minh, bị chiếm đoạt 01 điện thoại Iphone 13 Promax màu xanh dương 256GB; 01 Laptop Apple loại Macbook Air M1 8Gb 2020 13 inch; 01 đồng hồ có khắc chữ Guess viền mặt đồng hồ bằng nhựa màu xanh dương, dây bằng Silicon màu xanh; 01 đồng hồ có khắc chữ Calvin Klein Men Quartz Watch, mặt đồng hồ màu xanh lá cây, dây bằng da màu xanh lá cây;

 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đỏ nút bấm và số tiền 1.200.000 đồng. Ngày 12/6/2023, anh C đã nhận lại tài sản gồm 01 điện thoại Iphone 13 Promax màu xanh dương 256GB; 01 Laptop Apple loại Macbook Air M1 8Gb 2020 13 inch; 01 đồng hồ có khắc chữ Guess viền mặt đồng hồ bằng nhựa màu xanh dương, dây bằng Silicon màu xanh; 01 đồng hồ có khắc chữ Calvin Klein Men Quartz Watch, mặt đồng hồ màu xanh lá cây, dây bằng da màu xanh lá cây;

01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đỏ nút bấm và 150.000 đồng. Đối với số tiền 1.050.000 đồng, anh C có đơn không yêu cầu bồi thường đối với số tiền này.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Đình B, sinh năm 1985; Hộ khẩu thường trú: số 10, đường T N D, Phường D, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng, là người bị cáo Trần Anh T gửi nhờ sạc 01 điện thoại di động hiệu Nokia nút bấm màu đỏ tại nhà B và rủ đi bán tài sản trộm cắp được mà có. Quá trình điều tra xác định: khi B hỏi bị cáo Tuấn về nguồn gốc số tài sản thì bị cáo T chỉ nói với B là “đồ anh mua rẻ của người khác”, do đó B không biết đây là tài sản do bị cáo Tuấn phạm tội mà có, nên không đủ cơ sở để xử lý Phạm Đình B về tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự.

Tại kết luận định giá tài sản số 35/KL-HDĐG ngày 24/3/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Đ, kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax, màu xanh dương, dung lượng 256GB, số Imei:

356189754723147, đã qua sử dụng; có giá trị giao dịch phổ biến tại các cửa hàng mua bán là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng); 01 (một) laptop hiệu Macbook Air M1 8GB 2020, 13 inch, số seri: FVFHKBS1Q6L4, đã qua sử dụng; có giá trị giao dịch phổ biến tại các cửa hàng mua bán là 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng); 01 (một) đồng hồ khắc chữ Guess, viền mặt đồng hồ bằng nhựa màu xanh dương, dây bằng silicon màu xanh dương, đã qua sử dụng; có giá trị giao dịch phổ biến tại các cửa hàng mua bán là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng); 01 (một) đồng hồ khắc chữ Calvin Klein Men Quartz Watch, viền bằng kim loại màu trắng, dây bằng da màu xanh lá cây, đã qua sử dụng; có giá trị giao dịch phổ biến tại các cửa hàng mua bán là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105, nút bấm màu đỏ, đã qua sử dụng; có giá trị giao dịch phổ biến tại các cửa hàng mua bán là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản mà Trần Anh T đã chiếm đoạt của anh Lý Chí Cường là 38.200.000 đồng (ba mươi tám triệu hai trăm nghìn đồng). (BL: 44 – 49) Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đ ra Quyết định xử lý vật chứng số 54/QĐ-ĐTTH ngày 12/6/2023, trả lại cho anh Lý Chí Cường gồm 01 điện thoại Iphone 13 Promax màu xanh dương 256GB; 01 Laptop Apple loại Macbook Air M1 8Gb 2020 13 inch; 01 đồng hồ có khắc chữ Guess viền mặt đồng hồ bằng nhựa màu xanh dương, dây bằng Silicon màu xanh; 01 đồng hồ có khắc chữ Calvin Klein Men Quartz Watch, mặt đồng hồ màu xanh lá cây, dây bằng da màu xanh lá cây; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đỏ nút bấm và 150.000 đồng. Đối với số tiền 1.050.000 đồng, anh C có đơn không yêu cầu bồi thường đối với số tiền này.

Tại bản cáo trạng số 188/CT-VKS ngày 10/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Trần Anh T đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại quyết định truy tố và khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, bị cáo không thắc mắc khiếu nại gì đối với cáo trạng truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Anh T đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Anh T từ 30 đến 36 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết do người bị hại không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự .

Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt cho người bị hại là anh Lý Chí C theo Quyết định xử lý vật chứng số 54/QĐ-ĐTTH ngày 12/6/2023.

Ngày 21/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt đã tiến hành thu giữ đối với 01 xe mô tô hiệu MEDAL dạng Wave biển số 38K1-0320, màu đỏ, đã qua sử dụng có số máy là VKVLM1P52FMH-209588, số khung không có. Qua tra cứu biển số xe 38K1-0320 là của xe mô tô hiệu Fervor Future Neo của anh Phạm Văn L (SN: 1981, HKTT: TDP Hợp T, thị trấn L D, huyện L D, tỉnh Lâm Đồng) làm rơi mất trong quá trình đi làm vườn, anh Lâm có yêu cầu nhận lại biển số xe trên. Đối với số máy VKLM1P52FMH209588 hiện không tìm thấy dữ liệu tra cứu. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Người bị hại: Anh Lý Chí C vắng mặt tại phiên tòa, hồ sơ vụ án thể hiện anh Cường đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không có yêu cầu bồi thường.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Đình B có mặt tại phiên tòa và không có yêu cầu gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên tòa: bị cáo đã ăn năn hối lỗi, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Trần Anh T: Lợi dụng thời điểm người bị hại là anh Lý Chí C sơ hở trong việc quản lý tài sản bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp tài sản của anh C gồm 1.200.000 đồng, 01 điện thoại Nokia nút bấm màu đỏ, 01 đồng hồ màu xanh dương có khắc chữ Guess và 01 đồng hồ màu xanh lá cây có khắc chữ Calvin Klein, một chiếc laptop màu xám nhãn hiệu Apple, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax màu xanh dương. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo Trần Anh T đã chiếm đoạt của anh Lý Chí C là 38.200.000 đồng (ba mươi tám triệu hai trăm nghìn đồng).

[3] Xét thấy bị cáo Trần Anh T là người có nhân thân xấu, đã từng nhiều lần bị kết án về các hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Ngoài ra, bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý, đã được cải tạo, học tập nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tại phiên tòa, lời khai của người bị hại trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như cáo trạng số 188/CT- VKS ngày 10/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

Đối với anh Phạm Đình B, sinh năm 1985; Hộ khẩu thường trú: số 10, đường T N D, Phường E, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng, là người bị cáo Trần Anh T gửi nhờ sạc 01 điện thoại di động hiệu Nokia nút bấm màu đỏ tại nhà B và rủ đi bán tài sản trộm cắp được mà có. Tuy nhiên, anh B không biết đây là tài sản do bị cáo Tuấn phạm tội mà có, nên không đủ cơ sở để xử lý.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo Trần Anh T phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Khi quyết định hình phạt có xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện một cách liều lĩnh, táo bạo, là hành vi nguy hiểm cho xã hội và thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Xét nhân thân bị cáo đã từng bị kết án nhưng vẫn không tu dưỡng mà lại tiếp tục phạm tội, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Lý Chí C có đơn không yêu cầu bồi thường gì thêm, vì vậy không đề cập xem xét giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại là anh Lý Chí C 01 điện thoại Iphone 13 Promax màu xanh dương 256GB; 01 Laptop Apple loại Macbook Air M1 8Gb 2020 13 inch; 01 đồng hồ có khắc chữ Guess viền mặt đồng hồ bằng nhựa màu xanh dương, dây bằng Silicon màu xanh; 01 đồng hồ có khắc chữ Calvin Klein Men Quartz Watch, mặt đồng hồ màu xanh lá cây, dây bằng da màu xanh lá cây; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đỏ nút bấm và 150.000 đồng theo Quyết định xử lý vật chứng số 54/QĐ-ĐTTH ngày 12/6/2023.

Vật chứng còn lại của vụ án là 01 (một) xe mô tô hiệu MEDAL dạng Wave màu đỏ, số máy VKLM1P52FMH209588 hiện không tìm thấy dữ liệu tra cứu, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng nên giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ chủ sở hữu và xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Trần Anh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Anh Tuấn 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt, tạm giam 21/3/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự .

Tuyên: Giao cho Cơ quan Công an thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng 01 (một) xe mô tô hiệu MEDAL dạng Wave, màu đỏ, số máy VKLM1P52FMH209588 để tiếp tục điều tra xác minh làm rõ chủ sở hữu và xử lý theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Trần Anh T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn nêu trên kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 158/2023/HS-ST

Số hiệu:158/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về