Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 15/2023/HS-ST NGÀY 14/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Hà Văn L, sinh ngày 08/10/2005;

HKTT: Khu Còn 2, xã T, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 08/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn N, sinh năm 1981 và bà Hà Thị D, sinh năm 1984; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là thứ hai; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 10/02/2023, Đồn Biên phòng của khẩu Quốc tế Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 574 về hành vi “Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh theo quy định của pháp luật” với hình thức phạt tiền (Chưa nộp tiền);

Bị cáo áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện có mặt tại địa phương (Có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Cúc, Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Ninh (Có mặt);

Bị hại:

1. Chị Vũ Thị Th, sinh năm 1999 (Vắng mặt- xin xét xử vắng mặt)

2. Anh Hng Thế H, sinh năm 1999 (Vắng mặt- xin xét xử vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Bản N, xã Đ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Văn L, sinh ngày 08/10/2005; HKTT: Khu Còn 2, xã T, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ là đối tượng sống lang thang, không có nghề nghiệp ổn định. L bỏ đi khỏi địa phương từ tháng 2 năm 2023 đến nay, sống lang thang tại các quán Internet trên địa bàn xã Hn Sơn, huyện Tiên Du. Do không có nghề nghiệp ổn định, để có tiền chi tiêu cá nhân, L đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản trong các khu nhà trọ của công nhân trên địa bàn xã Hn Sơn.

Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 19/8/2023, L mặc áo phông cộc tay màu trắng, quần bò sáng màu, đi dép lê, đeo một túi giả da đen chéo trước ngực đi bộ lang thang trong khu dân cư thôn Núi Móng, xã Hn Sơn mục đích tìm các khu nhà trọ của có công nhân thuê trọ vắng người thì sẽ sử dụng chùm chìa khoá nhặt được trước đó mang theo để mở khoá. Khi đi đến khu vực đầu ngõ khu trọ gia đình ông Đại, L quan sát thấy vắng người nên đã đi vào bên trong đến khu vực dãy phòng trọ 2 tầng ở phía sau nhà riêng nhà ông Đại. Khi đi vào khu trọ, L không thấy có ai ở đây, L đi bộ lên tầng 2 và đi đến phòng trọ số 6 của chị Th. L thấy cửa phòng khoá nên lấy chùm chìa khoá mang theo bỏ ra để mở thử khoá cửa phòng thì mở được khoá cửa. Sau đó, L đi vào bên trong, quan sát thấy có một chiếc tủ bằng nhựa 3 cánh, màu vàng nhạt trong đó có 02 cánh không có khóa và 01 cánh có khóa. L đi đến gần chiếc tủ, mở 02 cánh tủ không khóa ra lục tìm nhưng không có tài sản gì nên L đã dùng tay giật mạnh cánh tủ có khóa thì mở được cánh tủ phát hiện 01 chiếc túi xách đen ở phía dưới tủ bên trong có một tệp tiền mệnh giá 500.000 đồng, L kiểm đếm được số tiền 19.000.000 đồng. L lấy số tiền trên cất trong túi đeo chéo của L và đóng cửa tủ lại rồi L ra ngoài, khoá cửa phòng lại và tiếp tục đi sang 2 phòng bên cạnh để mở khoá tuy nhiên không mở được. Sau đó, L đi ra ngoài và đi đến nhà nghỉ An Nhiên ở chợ Móng, xã Hn Sơn, huyện Tiên Du thuê phòng 202 nghỉ ngơi. Số tiền 9.000.000 đồng, L đã chi tiêu cá nhân hết. Đến ngày 20/8/2023, nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên L đã đến Công an huyện Tiên Du đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản.

*Vật chứng và xử lý vật chứng:

- Ngày 20/8/2023, L tự nguyện giao nộp số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) gồm các mệnh giá 500.000 đồng và 01 chùm chìa khoá có 12 chìa nhãn hiệu Việt Tiệp; 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng không gắn thẻ sim; 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng; 01 túi đeo bẳng vải màu đen.

- Đối với số tiền 10.000.000 đồng là tiền của vợ chồng chị Th nên ngày 29/9/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Th số tiền 10.000.000 đồng.

- Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 7 màu hồng không gắn thẻ sim, quá trình điều tra xác định được chiếc điện thoại là của anh Nguyễn Tuấn Anh, sinh ngày 09/3/2005, HKTT ở thôn Tùng Quang, xã Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Ngày 20/7/2023, do L không có điện thoại nên anh Quang cho L mượn để làm phương tiện liên lạc. Do chiếc điện thoại trên không liên quan gì đến hành vi phạm tội nên ngày 07/10/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại trên cho anh Tuấn Anh.

- Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng của L không liên quan đến hành vi phạm tội.

- Đối với 01 túi đeo bẳng vải màu đen của L đây là túi L đeo cùng khi đi trộm cắp tài sản và L đã cất số tiền trộm cắp của chị Th vào trong túi ngày 19/8/2023.

- Đối với 01 chùm chìa khoá có 12 chìa nhãn hiệu Việt Tiệp là L nhặt được sẽ dùng mở cửa các phòng trọ để trộm cắp tài sản.

*Trách nhiệm dân sự: Chị Th đã nhận lại số tiền 10.000.000 đồng và vợ chồng chị yêu cầu bị cáo L phải bồi thường cho vợ chồng chị số tiền 9.000.000 đồng. Việc cửa tủ và cửa phòng trọ bị hỏng vợ chồng chị Th không có yêu cầu gì.

Quá trình điều tra bị cáo Hà Văn L đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 151/CT-VKSTD ngày 19/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Truy tố bị cáo L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hà Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm b, i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 90, 91, 98 Điều 101 BLHS.

Xử phạt: Hà Văn L từ 08 tháng tù đến 10 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/8/2023 đến ngày 29/8/2023.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào điều 48 BLHS; các điều 584; 585, 586 và điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường số tiền 9.00.000 đồng cho chị Vũ Thị Th và anh Hng Thế H.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy 01 chùm chìa khoá có 12 chìa nhãn hiệu Việt Tiệp và 01 túi đeo bẳng vải màu đen.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng của L nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trong phần tranh luận:

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt;

Bị cáo nhận thấy bị Toà án nhân dân huyện Tiên Du xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về gia đình và xã hội.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nhất trí bản cáo trạng và bản luận tội đại diện VKS, không tranh luận gì, đề nghị HĐXX cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất. Đề nghị HĐXX áp dụng điều 65, 90, 101 BLHS và các điều quy định tại chương XII của BLHS cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại chị Vũ Thị Th và anh Hng Thế H xin vắng mặt tại phiên toà đã có lời khai tại Cơ quan điều tra việc vắng mặt không ảnh hưởng tới việc xét xử vì vậy Hội đồng xét xử vắng mặt các bị hại.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản xác định hiện trường, biên bản dẫn giải, phù hợp vật chứng thu giữ, với thời gian, địa điểm, lời khai bị hại, người liên quan và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên Hà Văn L đã thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, cụ thể như sau:

Khoảng 13 giờ 55 phút ngày 19/8/2023, tại phòng trọ số 6 của chị Vũ Thị Th thuê của gia đình ông Lê Thế Đại ở thôn Núi Móng, xã Hn Sơn, bị cáo Hà Văn L do không có tiền chi tiêu đã lén lút trộm cắp của chị Th số tiền 19.000.000 đồng.

Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Hà Văn L đã phạm tội ''Trộm cắp tài sản'' theo khoản 1, điều 173 BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp công dân, được pháp luật bảo vệ, gây mất gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải đưa bị cáo ra xét xử kịp thời và có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:

Bị cáo L là người có 01 tiền sự chưa được xoá, quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng ngoài ra, sau khi phạm tội bị cáo đã đến Cơ quan Công an đầu thú, giao nộp một phần số tiền đã trộm cắp, mặt khác bị cáo là người dân tộc thiểu số sống vùng kinh tế khó khăn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Thời điểm phạm tội bị cáo dưới 18 tuổi, trẻ tuổi, nhận thức pháp luật chưa đầy đủ nên cần áp dụng các quy định tại chương XII BLHS khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cho bị cáo là phù hợp.

Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, Hội đồng xét xử xét thấy: Tài sản bị cáo chiếm đoạt không nhỏ, hiện nay bị cáo chưa khắc phục đầy đủ, bị cáo là đối tượng lang thang, không có nơi cư trú ổn định, nhân thân có 01 tiền sự chưa được xoá, hiện nay bị cáo đã đủ 18 tuổi; Nên cần thiết phải xử bị cáo một mức án tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung, giúp bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích lấy tiền ăn tiêu, lẽ ra ngoài hình phạt chính cần phạt bổ sung một khoản tiền đối với bị cáo, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; Tuy nhiên bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng gì, sống ở vùng kinh tế khó khăn, vì vậy miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại vợ chồng chị Vũ Thị Th, anh Hng Thế Hoá yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 9.000.000 đồng mà bị cáo đã trộm cắp. Đến nay bị cáo chưa bồi thường cho bị hại. Yêu cầu trên của chị Th, anh Hoá là có căn cứ nên buộc bị cáo phải bồi thường số tiền trên cho chị Th, anh Hoá.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 01 chùm chìa khoá có 12 chìa nhãn hiệu Việt Tiệp và 01 túi đeo bẳng vải màu đen là công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng của L không liên quan đến hành vi phạm tội trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hà Văn L phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ khoản 1, điều 173; điểm b, i, s khoản 1; khoản 2, điều 51; điều 38, điều 90, điều 91, điều 98, điều 101 Bộ luật hình sự. Các Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Hà Văn L 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 20/8/2023 đến ngày 29/8/2023.

* Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào điều 48 BLHS; các điều 584; điều 585, điều 586, điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 9.000.000 đồng cho chị Vũ Thị Th và anh Hng Văn Hoá.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người thi hành án không tự nguyện thi hành thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự; Nếu không có thỏa thuận thì được thực hiện theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS; điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 chùm chìa khoá có 12 chìa nhãn hiệu Việt Tiệp và 01 túi đeo bằng vải màu đen.

Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime màu vàng bị vỡ màn hình của L nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo đúng Biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày 19/10/2023).

*Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 450.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2023/HS-ST

Số hiệu:15/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về