Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CL – TỈNH KH

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21/6/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C L, tỉnh K H, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 41/2021/HSST ngày 02/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST-HS ngày 08/12/2021, Thông báo chuyển ngày xét xử số 01/2022/TB-TA ngày 06/01/2022; Thông báo thời gian, địa điểm mở lại phiên tòa số 06/2022/TB-TA ngày 18/5/2022 và Thông báo chuyển ngày xét xử số 10/2022/TB-TA ngày 15/6/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H – sinh năm: 1998 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: tổ 26, phường H, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn H (chết); Mẹ: Văn Thị H; Vợ, con: chưa; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 20/4/2021, bị Công an phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 1.500.000đồng về hành vi trộm cắp tài sản; Nhân thân: Ngày 17/11/2021, bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam Gia Trung thuộc Bộ Công An. (có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại:

Đặng Thành D, sinh năm: 1982; nơi cư trú: Thôn Bắc Vĩnh, xã Cam Hải Tây, huyện C L, tỉnh K H. (có đơn xét xử vắng mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Hà Quốc K, sinh năm: 1958; nơi cư trú: 75 Núi Thành, phường Hòa Thuận Đông, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. (có đơn xét xử vắng mặt).

2. Sử Khắc H, sinh năm: 1971; nơi cư trú: Thôn Võ Cạnh, xã Vĩnh Trung, thành phố Nha Trang, tỉnh K H. (Vắng mặt tại phiên tòa)

* Người làm chứng:

Lê Văn N, sinh năm: 2001; nơi cư trú: Thôn Tân Thành, xã Cam Thành Bắc, huyện C L, tỉnh K H. (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H là thanh niên không có nghề nghiệp. Để có tiền tiêu xài H thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Ngày 28/6/2021, H bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu ra quyết định truy nã.

Đến ngày 29/6/2021, trên đường lẫn trốn tới huyện C L, tỉnh K H, do xe mô tô 43C1-320.77 (xe do H trộm cắp tại Đà Nẵng) bị hư hỏng nên H ghé lại tiệm sửa xe của anh Đặng Thành D ở thôn Bắc Vĩnh, xã Cam Hải Tây, huyện C L để sửa chữa. Đến khoảng 18 giờ 25 phút ngày 01/7/2021, H quay lại tiệm của anh D kiểm tra xe thì thấy xe chưa sửa xong. Tại đây, H phát hiện xe mô tô nhãn hiệu WEAL, kiểu dáng Dream, màu nâu, biển số 79F9-7556 của anh D đang dựng trước tiệm, không người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp. H quan sát thấy chìa khóa xe treo trên cánh cửa nên đi đến lấy tra vào ổ khóa, bật công tắc điện, dắt xe ra ngoài, rồi khởi động máy và điều khiển xe chạy vào hướng Cam R.

Sau khi phát hiện mất xe mô tô, anh D đã đến Công an xã Cam Hải Tây trình báo. Đến khoảng 19 giờ 20 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô 79F9-7556 đến địa phận xã Cam Thành Bắc ngồi nghỉ thì bị lực lượng công an xã Cam Thành Bắc kiểm tra và bắt giữ theo Quyết định truy nã, sau đó bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu.

Tại kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐGTS ngày 16/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C L kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu WEAL, số khung WA100-00000791, số máy FMG-3Y0205851, biển số 79F9- 7556 trị giá 3.000.000đồng.

Đối với xe mô tô 43C1-320.77 do Nguyễn Văn H trộm cắp tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C L đã bàn giao xe mô tô trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu để giải quyết theo thẩm quyền.

Cáo trạng số 39/CT-VKS-CL ngày 29/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C L, tỉnh K H đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, xin giảm nhẹ hình phạt.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C L giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh như bản cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn H.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo Nguyễn Văn H; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu về phần dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo Nguyễn Văn H đồng ý với tội danh Viện kiểm sát nhân dân huyện C L truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị hại Đặng Thành D; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Hà Quốc K có đơn xét xử vắng mặt; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Sử Khắc H, người làm chứng Lê Văn N vắng mặt nhưng việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã tuân thủ và thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa, Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án nêu trên. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận: khoảng 18 giờ 25 phút ngày 01/7/2021, Nguyễn Văn H đã vào tiệm sửa xe mô tô của anh Đặng Thành D ở thôn Bắc Vĩnh, xã Cam Hải Tây, huyện C L trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu WEAL, biển số 79F9-7556 của anh D trị giá 3.000.000đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó bản cáo trạng số: 39/CT-VKS- CL ngày 29 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C L đã truy tố bị cáo H về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo đã thực hiện các vụ trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền quản lý, sở hữu tài sản của người khác là một trong những khách thể quan trọng được Luật hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong cộng đồng dân cư. Bị cáo có 01 tiền sự, có nhân thân xấu. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, tài sản mà bị cáo trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Vì vậy, cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo sớm trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Nguyễn Văn H.

1. Xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 03 năm 06 tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 99/2021/HSST ngày 17/11/2021 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án là 05 (năm) năm tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày 01/7/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cam Lâm - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về