Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Na H, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Na H, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 10/2021/TLST-HS ngày 26/3/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HS, ngày 23/4/2021, đối với bị cáo: VI V Đ; Sinh ngày ngày 06/5/1979; tại xã Khâu Tinh, huyện Na H, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Tr Th, xã A Kh, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Con ông: Vi Văn L (Đã chết) và bà: Sạch Thị Nhật, sinh năm 1944; Vợ: Hỏa Thị S, sinh năm 1974; Con: Có 01 con, sinh năm 2002:

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

+ Bản án số 135/PTHS, ngày 04/11/1999, của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt Vi V Đ 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản;

+ Bản án số 04/2009/HSST, ngày 05/5/2009 của Tòa án nhân dân huyện Na H xử phạt Vi V Đ 03 năm 04 tháng tù về tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng;

+ Bản án số 42/2021/HSST, ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt Vi V Đ 09 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích.

Hiện bị cáo Vi V Đ đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang theo Quyết định tạm giam của Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang. Có mặt.

+ Bị hại: Anh Tr V S, sinh năm 1974; nơi cư trú: Thôn N M, xã H Th, huyện Na H, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt

+ Người làm chứng: Anh Bàn Văn Tr, sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn Nà K, xã H Th, huyện Na H, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Rạng sáng ngày 02/9/2020 Vi V Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 22Y1-3291 đi từ huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn đến xã Đà Vị, huyện Na H, tỉnh Tuyên Quang. Khi đến thôn N M, xã H Th, huyện Na H, Đ nhìn thấy có 01 con trâu đực, màu lông đen, khoảng 03 tuổi đứng ở lề đường, nên Đ nảy sinh ý định trộm cắp con trâu mang đi bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Đ dừng xe môtô, đi đến cầm dây chạc dắt con trâu ra ngoài đường và buộc dây chạc vào phía sau xe mô tô của mình. Sau đó, Đ dắt xe môtô và con trâu đi về hướng xã Đà Vị. Khi đi qua Ủy ban nhân dân xã H Th khoảng 200m, dây chạc bị tuột ra khỏi xe môtô và con trâu chạy cách Đ khoảng 10m. Do một mình không bắt được trâu, nên Đ đến nhà anh Bàn Văn Tr, để nhờ anh Trung hộ bắt trâu. Anh Trung hỏi Đ “trâu ở đâu”, Đ trả lời “trâu dắt ở trên kia, có biết chỗ nào bán được không?”, Trung trả lời “không”. Do nghi ngờ nguồn gốc con trâu nên anh Trung không hộ Đ bắt trâu mà đi về trước. Sau khi Đ một mình bắt lại được trâu và buộc ở vườn nhà anh Trung.

Đ vào ngủ nhờ nhà anh Trung đến khoảng 8 giờ thì dậy. Đ nghĩ là không bán được nên Đ dắt con trâu đến buộc dây chạc vào gốc cây vông trong vườn nhà ông Bàn Văn Chiêu, thuộc thôn Nà K, xã H Th, huyện Na H để cất giấu. Sau đó Đ quay về lấy xe mô tô đi đến thôn Xá Thị, xã Đà Vị, huyện Na H bán chiếc xe mô tô cho một người đàn ông không quen biết được 1.700.000đồng và đi vào huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Đến ngày 25/01/2021, Đ bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang bắt theo Quyết định truy nã trong vụ án khác.

Ngày 02/9/2020 ông Tr V S phát hiện bị mất con trâu, nên đã trình báo Công an xã H Th, huyện Na H. Cùng ngày Công an xã H Th đã phát hiện và tạm giữ con trâu tại vườn nhà ông Bàn Văn Chiêu thuộc thôn Nà K, xã H Th, huyện Na H.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 14 ngày 30/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Na H kết luận: 01 con trâu đực, màu lông đen, đã mọc 02 răng, có bốn xoáy lông mọc cân bằng hai bên vai trước và sau, kích thước vòng ngực 162cm, độ dài thân chéo 116 cm có khối lượng 273,987 kg hơi, giá trị 18.200.000đ (Mười tám triệu hai trăm nghìn đồng).

Về vật chứng vụ án: 01 con trâu, ngày 22/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Na H đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại con trâu cho chủ sở hữu là ông Tr V S.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Tr V S không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 11/CT- VKSNH ngày 25 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Na H, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án;

Bị cáo không có tài sản và không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để quyết định về án phí; áp dụng các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự để tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo, bị hại.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi bị truy tố và xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Na H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Na H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, từ chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận:

Rạng sáng ngày 02/9/2020, tại thôn N M, xã H Th, huyện Na H, Vi V Đ có hành vi lén lút trộm cắp 01 con trâu đực, màu lông đen, đã mọc 02 răng, có bốn xoáy lông mọc cân bằng hai bên vai trước và sau của ông Tr V S. Con trâu giá trị 18.200.000đ.

Hành vi của bị cáo đã phạm tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Na H, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo và quyết định hình phạt chính.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo là nam giới, có sức khỏe nhưng không lao động chân chính mà chiếm đoạt tài sản của người khác nhằm bán để có tiền tiêu sài cá nhân. Bị cáo có nhân thân xấu – đã từng nhiều lần bị Toà án xét xử. Vì vậy, cần có mức hình phạt tù nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung có hiệu quả.

Tuy nhiên khi quyết định hình phạt đối với bị cáo HĐXX thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mức án do Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là phù hợp.

[4]. Về hình phạt bổ sung: HĐXX thấy rằng bị cáo không có công việc, thu nhập ổn định, không có tài sản có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[5]. Trách nhiệm dân sự:

Bị hại không đề nghị bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về vật chứng:

Con trâu là tài sản bị trộm cắp đã được Cơ quan Điều tra trả cho bị hại là phù hợp [7]. Về án phí, quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của các Điều 331, 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Vi V Đ phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Vi V Đ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Vi V Đ phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Căn cứ các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo Vi V Đ, ông Tr V S được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 15/2021/HS-ST

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nà Hang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về