Bản án về tội trộm cắp tài sản số 151/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 151/2023/HS-PT NGÀY 12/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 283/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 83/2023/HS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh A; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2023/QĐXXPT-HS ngày 28/11/2023.

Bị cáo kháng cáo: Đặng Văn A, sinh ngày 30 tháng 12 năm 2004. Giới tính: Nam. Nơi ĐKHKT: ấp A, xã K, huyện A, tỉnh A. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Hòa Hảo. Nghề nghiệp: Làm thuê. Trình độ học vấn: 5/12. Con ông: Đặng Văn B, sinh năm: 1979 và bà: Đặng Thị L, sinh năm: 1977.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được tại ngoại và có mặt tại phiên tòa

- Bị hại: Bà Lê Thị H, sinh năm 1979 - Nơi cư trú: ấp A, xã K, huyện, A, tỉnh A - Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Cháu Lê Hoàng Đ, sinh ngày 13/4/2014 Nơi cư trú: ấp A, xã K, huyện, A, tỉnh A - Vắng mặt.

+ Ông Đặng Văn B, sinh năm 1979 và bà Đặng Thị L, sinh năm 1977 Cùng nơi cư trú: ấp A, xã K, huyện, A, tỉnh A - Có mặt.

+ Ông Lý Thanh H1, sinh năm 1982 Nơi cư trú: ấp A, xã K, huyện, A, tỉnh A - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 15/02/2023, Đặng Văn A đi bộ đến trường M (thuộc ấp A, xã K, huyện A, tỉnh A) nhìn thấy các em Lê Hoàng Đ, Lê Nhựt H2 và Lê Chí H3 đang chơi bắn ná, nên tham gia chơi cùng. Sau đó, A hỏi mượn xe đạp điện của Đ đang dựng gần đó, thì được H3 đồng ý cho mượn. A điều khiển xe chạy một đoạn, thấy đồng hồ báo hiệu điện trong bình ắc quy ở mức thấp, nên ghé nhà ông Trình Văn C hỏi mượn bộ sạc điện cho xe. Trong lúc chờ sạc điện, A nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, nên điều khiển xe đạp điện đến khu vực ấp A, xã K phát hiện xe mô tô biển số 67G1 - xxxxx của bà Lê Thị H đang dựng trước nhà, xe có gắn chìa khóa công tắc. A lấy trộm xe của bà H điều khiển đến thành phố T, tỉnh Bình Dương bán cho người đàn ông lạ mặt (không rõ nhân thân, lai lịch) được 5.200.000 đồng, còn xe đạp điện của Đ, thì A để lại trước nhà bà H.

Sau khi phát hiện tài sản bị mất trộm, bà H trình báo sự việc với Công an xã K. Quá trình điều tra, nghi vấn A là người lấy trộm, nên yêu cầu về làm việc, thấy vậy A đến gặp người đàn ông đã mua xe mô tô 67G1 - xxxxx xin chuộc lại, xong đem về giao nộp cho cơ quan công an và đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Kết luận định giá tài sản số 07 ngày 23/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện A, tỉnh A, xác định: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Vision, biển số 67G1-xxxxx, trị giá 19.500.000 đồng.

Kết luận giám định độ tuổi trên người sống số: 186 ngày 17/4/2023 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế thành phố C, kết luận: Đặng Văn A có độ tuổi từ 18 năm 00 tháng đến 18 năm 6 tháng (tại thời điểm giám định ngày 12/4/2023).

Ngày 25/4/2023, Đặng Văn A bị khởi tố để điều tra.

Tại bản Cáo trạng số 71/CT - VKS.AP ngày 23/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố Đặng Văn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2023/HS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh A đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; các Điều 292, 293, 333 và 336 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đặng Văn A 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Ngày 02/11/2023, bị cáo có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm cũng trong giai đoạn sơ thẩm, bị cáo A khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, đồng thời nhận thức việc làm là sai trái, số tiền bán xe bị cáo sử dụng vào việc ăn uống, tiêu xài cá nhân đến hết. Khi cha là ông B hỏi về việc có lấy trộm tài sản của bà H thì bị cáo thừa nhận và nhờ cha gửi tiền để chuộc lại xe rồi đầu thú tại Công an xã K, huyện A. Bị cáo đã thực sự hối hận và xin được án treo để có cơ hội sửa chữa lỗi lầm.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Cấp sơ thẩm truy tố, xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo và cung cấp tình tiết bị cáo có ông nội là Đặng Văn G được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Đây được xem là tình tiết giảm nhẹ mới cấp sơ thẩm chưa xem xét; hơn nữa, thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong độ tuổi vị thành niên, nhưng khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm không áp dụng các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội là thiếu sót. Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đủ điều kiện áp dụng Điều 65 BLHS; do đó, có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 BLTTHS. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, 101, 65 Bộ luật hình sự: xử phạt Đặng Văn A 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, về tội “Trộm cắp tài sản”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị cáo làm đơn kháng cáo trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử chấp nhận để xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án:

Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra vụ án, cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm. Phù hợp với lời khai bị hại, nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác đã thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án. Có đầy đủ căn cứ khẳng định: Vào ngày 15/02/2023, bị cáo Đặng Văn A đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Vision, biển kiểm soát 67G1 - xxxxx trị giá 19.500.000 đồng của bà Lê Thị H đậu trước cửa nhà rồi đem bán cho người khác để lấy tiền tiêu xài. Do đó Tòa án nhân dân huyện A xét xử bị cáo Đặng Văn A phạm tội “Trm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo:

Bị cáo là thanh niên mới lớn, có đầy đủ nhận thức được hành vi bản thân, lẽ ra như những thanh niên khác phải siêng năng lao động, học tập để tạo ra của cải phục vụ cho nhu cầu cá nhân, thế nhưng vì tham lam, lười biếng muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã có hành vi lấy trộm tài sản của người khác. Do vậy cần phải có một hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục.

Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chủ động khắc phục hậu quả bằng cách chuộc lại tài sản đã bán và mang trả lại chủ sở hữu; đầu thú; bị cáo có nhân thân tốt, trong thời gian tại ngoại không phạm tội mới; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 06 tháng tù là có căn cứ. Tuy nhiên xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; bị cáo xuất thân từ gia đình có công với đất nước (ông nội được tặng huân chương kháng chiến); đồng thời bị cáo đã thực sự hối hận và quyết tâm sửa chữa lỗi lầm đã thể hiện có khả năng tự cải tạo nên việc bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù là không cần thiết và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Là hoàn toàn phù hợp với các quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự 2015, được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Do đó kháng cáo của bị cáo là có căn cứ nên cần chấp nhận như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A.

Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát cho rằng thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong độ tuổi vị thành niên, nhưng khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm không áp dụng các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội là thiếu sót. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có làm thủ tục đăng ký khai sinh theo quy định, giấy khai sinh ghi rõ ngày tháng năm sinh và được cha ruột bị cáo xác định rõ tại phiên tòa về ngày tháng năm sinh trong giấy khai sinh đúng thực tế, cho nên HĐXX vẫn xác định khi thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo là người đã thành niên.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Văn A .

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2023/HS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh A.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Đặng Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đặng Văn A 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (12/12/2023).

Giao Đặng Văn A cho UBND xã K, huyện A, tỉnh A giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

2. Về án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 151/2023/HS-PT

Số hiệu:151/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về