Bản án về tội trộm cắp tài sản số 151/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 151/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 05 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu L, sinh năm 1972. Tại thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Số 180 đường T, phường T1, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu T2 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị M (Đã chết); Anh chị em ruột có 04 người: lớn nhất sinh năm 1974, nhỏ nhất sinh năm 1982; Vợ Bành Thị B; Con có 02 người: Lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2005.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 11/04/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 28/12/2013 đã chấp hành xong, chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt truy nã, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/01/2022 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa

- Người bị hại:

1 Ông Vũ Huy C, sinh năm 1951 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 243 đường T3, phường Q, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

- Người làm chứng:

+ Ông Lê Văn Q1, sinh năm 1970 (Vắng mặt) Đại chỉ: Số 14/4L đường T4, phường T2, thành phố G, tỉnh Kiên Giang

+ Bà Đoàn Thị B1, sinh năm 1954 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 243 đường T3, phường Q, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 01/06/2014. Ông Lê Văn Q1 đang ở nhà thì nhận được điện thoại của bạn là Nguyễn Hữu L, rủ đi uống cà phê, sau đó thì cả hai cùng nhau đi uống rượu. Trong lúc uống rượu thì L rủ Q1 đi tìm tài sản sơ hở để trộm bán lấy tiền tiêu xài, Q1 đồng ý. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, L chở Q1 bằng xe mô tô của Q1 (loại xe Wave màu đỏ - đen, không rõ biển số) trên các tuyến đường thành phố G. Khi đi đến sân bóng đá mini Kim Điền ở số 243 đường T3, phường Q, thành phố G do ông Vũ Huy C làm chủ, L điều khiển xe chạy thẳng vào bên trong rồi dừng xe lại phía sau nhà ông C. Lúc này ông C và vợ là bà Đoàn Thị Bính đang nghỉ trưa ở trong nhà. L quan sát thấy có 01 hệ thống máy bơm nước áp lực cao, gồm 01 máy bơm hiệu KAYAMA màu đỏ và 01 mô tơ điện công suất 2,5HP để gần vách nhà sau nên đã bàn với Q1 lấy trộm. Cả hai đứng quan sát một lúc, thấy thuận L nên đã dẫn xe đến gần vị trí máy bơm, còn L đến tháo chiếc máy bơm nước ra và khiêng để lên yên xe. Lúc này L kêu Q1 điều khiển xe còn L ngồi phía sau giữ máy bơm. Khi nổ máy xe định tẩu thoát thì bà Bính phát hiện nên chạy ra giữ lại và tri hô làm xe bị mất thăng bằng nên rơi máy bơm xuống đất. L xuống xe bỏ chạy ra phía sau thì bị ông C chặn yêu cầu đứng lại, lúc này Q1 cố giằng co bỏ chạy ra đến cổng thì bị ông C đạp ngã nên bị bắt giữ. Bị cáo L lợi dụng sơ hở của vợ chồng ông C nên đã lấy xe chạy ra ngoài bỏ trốn. Sau khi bỏ trốn L đã nhờ con gái là Nguyễn Thị Thu Thảo trả xe cho mẹ của Q1 là bà Phạm Thị S. Bà S cần tiền để tiếp tế đồ cho Q1 đang bị tạm giam nên đã bán xe cho một người thanh niên không rỏ lai lịch với giá 2.300.000 đồng và đã tiêu xài hết. Đến ngày 28/8/2014 Nguyễn Hữu L bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố nhưng đã bỏ trốn khỏi địa phương và bị truy nã. Đến ngày 19/01/2022 bị bắt theo quyết định truy nã số 29 ngày 26/8/2014 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G L đã thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình.

Đối với Lê Văn Q1 đã được xét xử tại Bản án số 27/2015/HSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu L đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.

* Vật chứng trong vụ án:

01 (Một) hệ thống máy bơm nước áp lực cao, gồm 01 (Một) máy bơm hiệu KAYAMA màu đỏ và 01 (Một) mô tơ điện công suất 2,5HP, đã qua sử dụng.

* Tại bản kết luận định giá về giá trị tài sản số 52/KL-TCKH, ngày 04/06/2014 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố G đã kết luận: Hệ thống máy bơm nước áp lực cao, gồm 01 (Một) máy bơm hiệu KAYAMA màu đỏ và 01 (Một) mô tơ điện công suất 2,5HP, đã qua sử dụng có giá trị là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

* Xử lý vật chứng: Tất cả các vật chứng đã được xử lý tại Bản án số 27/2015/HSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Vũ Huy C đã nhận lại đầy đủ tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm.

* Tại bản cáo trạng số: 91/CT-VKSRG, ngày 26 tháng 04 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Công an thành phố G và bản cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu L từ 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Tất cả các vật chứng đã được xử lý tại Bản án số 27/2015/HSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, đề nghị không xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Vũ Huy C đã nhận lại đầy đủ tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm, đề nghị không xem xét.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hữu L: Vào khoảng 14 giờ ngày 01/06/2014, tại số nhà 243 đường T3, phường Q, thành phố G, bị cáo Nguyễn Hữu L và Lê Văn Q1 đã lén lút lấy trộm hệ thống máy bơm nước áp lực cao, gồm 01 (Một) máy bơm hiệu KAYAMA màu đỏ và 01 (Một) mô tơ điện công suất 2,5HP của ông Vũ Huy C đang để ở cập vách nhà thì bị phát hiện và bắt quả tang cùng vật chứng. (Qua định giá tài sản có giá trị là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng).

Đối với Lê Văn Q1 đã được xét xử tại Bản án sơ thẩm số 27/2015/HSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Hựu L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sữa đổi năm 2009 như kết luận của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù bị cáo ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo lợi dụng sự sơ hở của bị hại bất chấp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống gia đình bị hại, làm mất an ninh, trật tự ở địa phương và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Mặc khác, trong thời gian Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố bị cáo L đã bỏ trốn khỏi địa phương và bị truy nã. Qua xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản (chưa xóa án tích) nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo mức án tương xứng bằng hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đã cho thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Vũ Huy C đã nhận lại đầy đủ tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Tất cả các vật chứng đã được xử lý tại Bản án số 27/2015/HSPT ngày 05/02/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang nên không xem xét.

[8] Xét đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G đề nghị tại bản luận tội đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu L mức án 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/01/2022.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; buộc bị cáo Nguyễn Hữu L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (18/05/2022). Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 151/2022/HS-ST

Số hiệu:151/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về