Bản án về tội trộm cắp tài sản số 148/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 148/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 142/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Công P, sinh năm 1975 tại Thái Bình; nơi ĐKHKTT: Thôn P, xã A, huyện B, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ 4, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công L và bà Nguyễn Thị V (đều đã chết); vợ: Phạm Thị H (đã ly hôn); con: Có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Ngày 22/12/2015, Toà án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 12/6/2019, Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo kháng cáo, ngày 28/8/2019, Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam giữ nguyên bản án sơ thẩm, xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 28/10/2022, Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/5/2008, Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị tạm giữ từ ngày 04/10/2023, chuyển tạm giam từ ngày 13/10/2023 đến nay; có mặt.

- Bị hại: Chị Trần Thi Minh Ph, sinh năm 1990; trú tại: Tổ 4, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Văn K, sinh năm 1977; trú tại: Tổ 4, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 03/10/2023, Nguyễn Công P đi bộ qua cổng nhà chị Trần Thị Minh Ph, thấy cửa cổng đang mở, bên trong nhà không có người nên P nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. P đi vào trong nhà, P nhìn thấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3s màu đỏ để trên giường kê ở góc trong bên trái của phòng khách, P đi đến cầm chiếc điện thoại bỏ vào túi quần đang mặc và tiếp tục đi vào gian buồng trong nhà nhưng không lấy được tài sản gì. Sau khi lấy được chiếc điện thoại di động của chị Ph, P đi đến cửa hàng mua bán điện thoại của anh Trần Văn K ở tổ 4, phường L, thành phố P bán được 400.000 đồng và đi về nhà.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày chị Trần Thị Minh Ph phát hiện bị mất trộm điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3s nên đã làm đơn trình báo đến Công an phường L, thành phố P để giải quyết.

Công an phường L, thành phố P đã tiến hành xác minh, lập biên bản sự việc đối với Nguyễn Công P. Ngày 04/10/2023, Công an phường L đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phủ Lý giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3S số IMEI 1: 868125043375639, số IMEI 2: 868125043375621, màu đỏ; 01 ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen - vàng; số tiền 400.000 đồng; 01 Căn cước công dân số 0340750X20 mang tên Nguyễn Công P và 01 đĩa DVD lưu giữ hình ảnh camera tại nhà chị Trần Thị Minh Ph.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 104/KL-HĐĐGTS ngày 10/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3s, số IMEI 1: 868125043375693, số IMEI 2 868125043375621, màu đỏ, đã qua sử dụng giá 433.000đ; 01 ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen - vàng, đã qua sử dụng giá 10.000đ”.

Tại bản cáo trạng số 151/CT-VKS-PL ngày 29/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Công P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Nguyễn Công P như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX):

+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công P từ 18 đến 24 tháng tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 173, Điều 35 Bộ luật Hình sự. Phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Công P từ 01 triệu đến 02 triệu đồng sung Ngân sách Nhà nước.

+ Về trách nhiệm dân sự: Chị Trần Thị Minh Ph và anh Trần Văn K không có yêu cầu, đề nghị gì về phần bồi thường dân sự nên không xem xét.

+ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 400.000 đồng là tiền anh K bỏ ra để mua chiếc điện thoại trộm cắp của bị cáo. Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD lưu giữ hình ảnh camera tại nhà chị Trần Thị Minh Ph liên quan đến vụ án. Trả lại cho bị cáo 01 Căn cước công dân mang tên Nguyễn Công P nhưng giao cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền tạm giữ và trả lại bị cáo khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

+ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai và quan điểm của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, HĐXX vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Công P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản vụ việc, biên bản kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận định giá tài sản, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 03/10/2023, để có tiền chi tiêu cá nhân, Nguyễn Công P đã lén lút trộm cắp của chị của chị Trần Thị Minh Ph 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đỏ trị giá 433.000 đồng và 01 ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen - vàng trị giá 10.000 đồng, tổng giá trị tài sản là 443.000 đồng. Do ngày 22/12/2015, Nguyễn Công P bị Toà án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù; ngày 12/6/2019, bị Toà án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù; ngày 28/10/2022, bị Toà án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xử phạt 01 năm tù đều về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa được xoá án tích lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý nên hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị Toà án xử phạt tù đều về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

- Về hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang và bất bình trong nhân dân. Bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xử phạt tù đều về tội trộm cắp tài sản, sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân, sống có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Song xét bị cáo thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có sức khỏe, có công việc và thu nhập nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, nhưng xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên chỉ cần phạt ở mức phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Chị Trần Thị Minh Ph và anh Trần Văn K không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về phần dân sự nên HĐXX không xem xét.

[7] Xử lý vật chứng và các tài sản đã thu giữ:

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, màu đỏ và 01 ốp điện thoại bằng nhựa, màu đen - vàng. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Trần Thị Minh Ph. Này 12/10/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại chiếc điện thoại và ốp điện thoại cho chị Ph là phù hợp với pháp luật.

- Đối với số tiền 400.000 đồng thu giữ của bị cáo. Quá trình điều tra xác định đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 đĩa DVD lưu giữ hình ảnh camera tại nhà chị Trần Thị Minh Ph liên quan đến vụ án, tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 Căn cước công dân mang tên Nguyễn Công P là giấy tờ hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo, nhưng giao cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền tạm giữ và trả lại bị cáo khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

[8] Về tình tiết khác: Đối với anh Trần Văn K là người mua chiếc điện thoại của bị cáo Nguyễn Công P, anh K không biết chiếc điện thoại do P phạm tội mà có nên không phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 5 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 35, 38, 47, 50 Bộ luật Hình sựCăn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sựCăn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công P 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04 tháng 10 năm 2023.

3/ Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Công P 1.000.000đ (một triệu đồng) sung Ngân sách Nhà nước.

4/ Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng).

- Trả lại cho bị cáo 01 Căn cước công dân số 0340750X20 mang tên Nguyễn Công P, nhưng giao cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền tạm giữ và trả lại cho bị cáo khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

- Tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD lưu giữ hình ảnh camera tại nhà chị Trần Thị Minh Ph liên quan đến vụ án.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 01/12/2023 giữa Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý và Ủy nhiệm chi số 71 ngày 07/12/2023).

5/ Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Công P phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 148/2023/HS-ST

Số hiệu:148/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về