Bản án về tội trộm cắp tài sản số 147/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 147/2020/HS-PT NGÀY 13/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 3 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 37/2020/TLPT-HS ngày 07 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Thạch C;do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 518/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

-Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Thạch C(K);Giới tính: Nam; Sinh ngày: 1994; Nơi sinh: tỉnh Sóc Trăng; Nơi đăng ký thường trú: xã An Thạnh 3, huyện Cù Lao D, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở: không nơi ở nhất định; Nơi từng cư trú: phường Phước Long A, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 2/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ Me; Tôn giáo: Phật; Cha: Thạch Khởi N, sinh năm 1975; Mẹ: Trịnh Thị G, sinh năm 1975; Vợ: Trần Thanh T(đã ly hôn);Con: Có 2 người, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2016.

- Tiền án: Ngày 28/12/2016 bị Tòa án nhân dân Quận x, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/4/2017 và đã đóng án phí dân sự.

- Tiền sự: Không - Nhân thân:

+ Ngày 11/10/2010 Công an phường Phước Long A, Quận X xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp vặt.

+ Ngày 07/6/2018, bị Công an phường Bình Thọ, quận Thủ Đức lập biên bản về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và bị Ủy ban nhân dân phường Bình Thọ ra Quyết định đưa vào cơ sở xã hội thanh thiếu niên 2 để quản lý cắt cơn, giải độc. Đến ngày 05/9/2018, Ủy ban nhân dân phường Bình Thọ, quận Thủ Đức có quyết định hủy quyết định đưa vào cơ sở xã hội Thanh thiếu niên 2 do có nơi cư trú tại An Thạnh 3, Cù Lao D, tỉnh Sóc Trăng.

Bị cáobị tạm giam từ ngày 27/10/2018 (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án này còn có bị cáo Bùi Văn T1, bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ, ngày 26/10/2018, anh Phùng Anh T2 điều khiển xe ôtô hiệu Honda CRV màu trắng, chở chị Nguyễn Cao Kỳ D cùng 02 người bạn tên L, H (chưa xác định lai lịch) ngồi băng ghế sau, lưu thông theo hướng từ quận Gò Vấp về đường Dương Đình Hội, phường Phước Long B, Quận X. Do giữa anh T2 và chị D có mâu thuẫn nên khi xe đi đến trước bãi đất trống cạnh nhà đường Tây Hòa, phường Phước Long A, Quận X thì dừng lại. Chị Dvà anh T2 mở cửa xuống xe, cự cãi qua lại. Chị Dchạy bộ vào một con hẻm gần đó, thấy vậy, các anh L, Hxuống xe, chạy bộ đuổi theo chị D. Anh T2 quay lại xe, để lại túi xách đeo trên vai hiệu LV màu đen (bên trong có số tiền 100.000.000 đồng Việt Nam, 01 điện thoại di động (ĐTDĐ) hiệu Iphone X 256Gb màu trắng, 01 ĐTDĐ hiệu Vertu S- 084956 màu vàng, 01 giấy chứng minh nhân dân (CMND), 01 bằng lái xe, 01 giấy đăng ký xe môtô biển số 30F9-3171 đều mang tên Phùng Anh T2) vào trong xe, trên ghế tài xế, đóng cửa xe lại (nhưng không chốt khóa cửa xe) và đi về hướng chị D đã bỏ chạy. Một lúc sau, khi quay lại xe ôtô, anh T2 phát hiện bị mất chiếc túi trên nên đến 17giờ cùng ngày, đã đến Công an phường Phước Long A, Quận X trình báo sự việc.

Qua trích xuất camera và ghi lời khai người biết việc là Phạm Văn T3, cơ quan điều tra xác định được Thạch C và đồng phạm đã trộm cắp chiếc túi xách vào khoảng 04 giờ ngày 26/10/2018 nêu trên trong xe ôtô của anh Phùng Anh T2 nên đưa Thạch C về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Công an, Thạch Ckhai nhận:

Khoảng 04 giờ ngày 26/10/2018, khi Ccùng Lê Phụng Ngọc L1 (tên thường gọi là N1, bạn gái C) và Bùi Văn T1 (Xí Đ) đang đứng nói chuyện tại trước cửa tiệm game bắn cá tại Tây Hòa, phường Phước Long A, Quận X thì chứng kiến việc 01 xe ôtô màu trắng giống xe 07 chỗ (không rõ loại xe và biển số) dừng trước đường Tây Hòa (chếch xéo bên kia đường, cách tiệm bắn cá khoảng 20m) có 01 người nam và 01 người nữ đứng cãi nhau phía đầu xe, có 02 người thanh niên trên xe xuống can ngăn và cùng chạy vào con hẻm gần đó. Lúc này, L1 đi vào trong tiệm game bắn cá làm việc, còn lại C và T1 tiếp tục nói chuyện bên ngoài. T1 nói C “chở Cậu ra đây một tí”, C nghĩ là chở T1 về nhà nên đồng ý và đi vào trong tiệm bắn cá lấy nước uống. Khi đi ra ngoài, C thấy T1 đi sang bên kia đường, về phía chiếc xe ôtô màu trắng nêu trên. C liền lấy xe môtô Exciter (do anh Phùng Anh D1, chủ tiệm game bắn cá ở Tây Hòa cho mượn làm phương tiện đi lại phục vụ cho tiệm máy bắn cá) điều khiển về hướng đầu xe ôtô trên. Khi gần đến nơi, C thấy T1 đang chồm người vào bên trong xe ở hàng ghế trước của xe ôtô này theo hướng từ phía cửa trên bên ghế phụ vào, lấy một vật gì đó nên biết là T1 trộm cắp tài sản trong xe ôtô. Cnghĩ sẽ được T1 chia phần trong số tài sản trộm cắp được nên liền quay đầu xe sang bên kia đường, dừng cách đầu xe ôtô khoảng 3m để đợi T1 chạy đến, lên xe để Ctăng ga chở T1 tẩu thoát. Trên đường đi, T1 nói với C đã trộm cắp được cái giỏ xách có điện thoại và tiền bên trong, dừng xe lại để giấu đồ. Cả hai dừng tại bãi đất trống trong khu dự án Bách Giang thuộc khu phố 4, phường Phước Long A, Quận X để Thanh giấu chiếc ĐTDĐ Iphone trộm cắp được dưới đống gạch, còn Cdừng xe cách khoảng 3m và nhìn thấy rõ vị trí T1 giấu chiếc ĐTDĐ này. Sau đó, Cchở T1 về chòi lá đối diện nhà T1 ở địa chỉ phường Phước Long A, Quận X. Tại đây, T1 lấy trong người ra một số cọc tiền có mệnh giá 50.000, 100.000, 200.000, 500.000 đồng Việt Nam, T1 đưa cho Ccọc tiền mệnh giá 500.000 đồng và một ít tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng nói tổng cộng là 50.000.000 đồng. Cđếm được hơn 40.000.000 đồng tiền mệnh giá 500.000 đồng thì dừng lại và nghĩ là đủ 50.000.000 đồng nên cầm tiền đi về. Trên đường đi, Cmở tiền ra đếm lại tổng cộng chỉ được 43.000.000 đồng.

Đến khoảng 7 giờ cùng ngày, C chở L1 (N1) đến bãi đất trống, nơi T1 đã giấu chiếc ĐTDĐ (lúc này C mới biết là ĐTDĐ hiệu Iphone X màu trắng 256Gb) và mang bán tại tiệm cầm đồ tạiphường Hiệp Phú, Quận X cho anh Nguyễn Hữu T4 được 6.500.000 đồng, C giữ lại 3.500.000 đồng và mang đưa cho T1 3.000.000 đồng. Số tiền có được, Cđem trả nợ cho chị Nguyễn Thị H1 13.000.000 đồng, trả nợ cho người thanh niên ngoài xã hội (không rõ lai lịch) 28.000.000 đồng, chuộc lại chiếc ĐTDĐ đã cầm trước đó cho chị Nguyễn Thị Xuân T5 là 1.750.000 đồng và tiêu xài cá nhân, số tiền còn lại 2.850.000 đồng CQĐT đã thu giữ. C khai ra nơi cư trú của Bùi Văn T1 và xác nhận không có bàn bạc với T1 trong việc trộm cắp tài sản, không biết gì về chiếc ĐTDĐ Vertu mà bị hại khai mất; Ccũng không biết T1 đã vứt bỏ chiếc giỏ xách khi nào và ở đâu.

Tại cơ quan điều tra T1 khai nhận toàn bộ sự việc cùng Thạch C thực hiện hành vi phạm tội vào khoảng 04 giờ ngày 26/10/2018 tại trước bãi đất trống cạnh nhà Tây Hòa, phường Phước Long A, Quận X như trên. T1 khai chính Clà người rủ T1 lấy trộm tài sản trong xe ôtô của anh Phùng Anh T2 và hứa dùng xe môtô chở T1 đi sau khi trộm cắp được tài sản. T1 đi bộ đến, mở cửa xe ôtô, lấy trộm 01 túi xách màu đen ở tại vị trí ghế lái ở hàng ghế trước. Sau đó T1 được Cchở tẩu thoát bằng xe máy hiệu Yamaha Exciter (không nhớ biển số). Khi dừng xe ở bãi đất trống thuộc phường Phước Long A, Quận X, cả hai kiểm tra tài sản trong túi xách thì thấy có cọc tiền 100.000.000 đồng gồm nhiều mệnh giá từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân mang tên Phùng Anh T2. T1 liền giấu cọc tiền vào trong áo, giấu chiếc ĐTDĐ IphoneX dưới đống gạch và cả hai đi về chòi lá đối diện nhà T1. Trên đường đi, T1 kiểm tra lại chiếc túi xách thì phát hiện còn 01 ĐTDĐ khác màu vàng (sau này T1 mới biết đó là chiếc ĐTDĐ Vertu) nên đã giấu vào trong áo mình, vứt túi xách đi và không nói cho Cvề chiếc ĐTDĐ này. Tại chòi lá, T1 đã chia cho C50.000.000 đồng và giữ lại 50.000.000 đồng. Đến khoảng hơn 7 giờ cùng ngày, C nói với T1 bán chiếc ĐTDĐ IphoneX được 6.500.000 đồng, T1 đồng ý nhận lại 3.000.000 đồng và để Cgiữ 3.500.000 đồng. Riêng chiếc ĐTDĐ Vertu, T1 bọc gói trong túi nilon màu đen, dùng băng keo cuốn bên ngoài nhiều lớp rồi cất giấu dưới đống củi ở chòi lá (đối diện nhà T1). Khi biết Cbị bắt, T1 đã bỏ trốn. Toàn bộ số tiền có được, T1 đã tiêu xài cá nhân hết. Sau khi lên làm việc với CQĐT, T1 đã gọi cho Bùi Thanh T6 (em ruột) đến chòi lá lục tìm chiếc ĐTDĐ Vertu và mang giao nộp cho CQĐT Công an Quận X.

Bùi Văn T1 và Thạch C đã được cho đối chất nhưng vẫn giữ nguyên lời khai như trên.

Anh Nguyễn Hữu T4 tự giao nộp lại chiếc ĐTDĐ Iphone X do C bán cho mình và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường, cũng không có ý kiến gì.

Chị Nguyễn Thị H1 trả lại số tiền 13.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị Xuân T5 trả lại 1.750.000 đồng để phục vụ công tác điều tra.

Anh T4, chị H1, chị T5 không biết số tiền cũng như tài sản trên do phạm tội mà có.

* Tài sản bị mất trộm trong vụ án:

- Số tiền 100.000.000 đồng Việt Nam;

- 01 ĐTDĐ Iphone X 256Gb màu trắng, số Imel 353040090999813 anh Tuấn mua từ tháng 02/2018 với giá 34.000.000 đồng;

- 01 ĐTDĐ Vertu S-084956, màu vàng, anh Phùng Anh T2 khai mua ở Nam Định vào khoảng tháng 5/2017 (không nhớ thời gian cụ thể) tại một cửa hàng kinh doanh ĐTDĐ ở Nam Định với giá 450.000.000 đồng, có hóa đơn mua bán nhưng anh T2 đã làm mất trong quá trình chuyển nơi ở.

- 01 chiếc túi xách LV màu đen, anh T2 khai mua với giá 26.000.000 đồng qua mạng xã hội, có hóa đơn nhưng đã bị mất (trong túi xách có 1 số giấy tờ cá nhân mang tên Phùng Anh T2), cơ quan định giá không định giá được, đã cho T1 chỉ điểm nơi vứt túi xách nhưng không thu hồi được.

Kết luận định giá tài sản số 02-2018/KL-ĐGTS ngày 05/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân Quận X kết luận: 01 ĐTDĐ hiệu Apple IphoneX 256Gb có giá trị còn lại 22.400.000 đồng; 01 ĐTDĐ hiệu Vertu S- 084956 giá trị còn lại 415.000.000 đồng. CQĐT đã thông báo kết quả định giá nêu trên cho bị hại Phùng Anh T2 các bị can Bùi Văn T1 và Thạch C. Tất cả đều đồng ý và không có ý kiến gì khác.

Tổng trị giá tài sản bị mất xác định được là 537.400.000 đồng, gồm 100.000.000 đồng Việt Nam cùng với 02 ĐTDĐ nêu trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số518/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Tuyên bố bị cáo Thạch Cphạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Thạch C 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Bùi Văn T1 (Xí Đ), phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 02 tháng 12 năm 2019, bị cáo Thạch C làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Thạch C trình bày:Bị cáo từ chối mời Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo. Bị cáo xin được tự trình bày lời bào chữa tại phiên tòa hôm nay mà không cần Luật sư và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo 12 năm tù về tội ”Trộm cắp tài sản” là quá nặng.

Quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa:

Hành vi của bị cáo Thạch Clà nguy hiểm cho xã hội; bị cáo C đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; bị cáo là người có nhân thân xấu.Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị lớn. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Thạch C12 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không nêu ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Kháng cáo của bị cáo Thạch Cđúng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự nên vụ án được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[1.2] Về quyết định, hành vitố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[1.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư chỉ định bào chữa cho bị cáo vắng mặt. Đây là phiên tòa mở lần thứ nhất. Hội đồng xét xử hỏi ý kiến của bị cáo về việc hoãn phiên tòa để bị cáo mời luật sư hoặc Hội đồng xét xử tiếp tục mời Luật sư chỉ định để bào chữa cho bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo từ chối mời Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo. Bị cáo xin được tự bào chữa tại phiên tòa hôm nay mà không cần Luật sư và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:Xét kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Thạch C.

[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Thạch Cđã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo Thạch C tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để kết luận:Khoảng 4 giờ ngày 26/10/2918, Bùi Văn T1 đã có hành vi lén lút lấy trộm chiếc túi xách màu đen hiệu LV màu đen trên xe ôtô hiệu Honda CRV màu trắng, (bên trong có số tiền 100.000.000 đồng Việt Nam, 01 điện thoại di động (ĐTDĐ) hiệu Iphone X 256Gb màu trắng, 01 ĐTDĐ hiệu Vertu S- 084956 màu vàng) trước bãi đất trống cạnh nhà đường Tây Hòa, phường Phước Long A, Quận X, sau đó lên xe của Thạch Cchờ sẵn cùng nhau chạy trốn. Tổng giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị 537.400.000 đồng.

[2.2]Bị cáo Thạch Cđược xác địnhlà đồng phạm với bị cáo Bùi Văn T1 trong vụ trộm cắp tài sản nêu trên. Tuy chỉ là đồng phạm giản đơn vì giữa bị cáo và Bùi Văn T1 không có sự bàn bạc trước hay phân công nhiệm vụ khi phạm tội, Nhưng trong vụ án này giá trị tài sản các bị cáo trộm cắp rất lớn. Mặc dù T1 là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp, nhưngbị cáo C là người giúp sức tích cực, đã chở T1 tẩu thoát sau khi thực hiện hành vi trộm và cùng nhau chia tài sản trộm được. Do đó, vai trò, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các bị cáo là như nhau.

[2.3]Bị cáo Thạch Cđược áp dụng các những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Thạch C thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;được bị hại làm đơn xin bãi nại cho các bị cáo. Tuy nhiên, về nhân thân bị cáo Thạch Ctrước khi phạm tội này bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.Hành vi phạm tội của bị cáo C là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn nên cần phải xử lý nghiêm.

[2.4]Hội đồng xét xử xét thấy Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, xét xử tuyên bố bị cáo Thạch C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tuyên phạt bị cáo 12 năm tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo Thạch Ckháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng các tình tiết giảm nhẹ bị cáo nêu ra để đề nghị Hội đồng xét xử giảm án cho bị cáo đã được cấp sơ thẩm xem xét. Bị cáo không đưa ra đươc tinh tiêt gia m nhe nao mơi , nên Hôi đông xet xư chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh , bác kháng cáo của bị cáo, giư nguyên ban an sơ thâm.

[3]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Thạch C phải chịu 200.000đ.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Thạch C, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 518/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với phần bị kháng cáo.

[2] Căn cứ khoản 4 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

[2.1] Tuyên bố bị cáo Thạch Cphạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2.2] Xử phạt bị cáo Thạch C 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/10/2019.

[3] Tiếp tục tạm giam bị cáo Thạch C để đảm bảo cho việc thi hành án.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Thạch Cphải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

[6] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 147/2020/HS-PT

Số hiệu:147/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về