Bản án về tội trộm cắp tài sản số 146/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 146/2022/HS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 132/2022/TLST- HS ngày 04 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Minh Đ; sinh năm 1993, tại B, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 19, khu phố 3, phường T, thị xã B, tỉnh B, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ học vấn: 9/12, nghề nghiệp: Không. Con ông Nguyễn Hoàng D và bà Hoàng Thị Đ1. Tiền án: Ngày 08/5/2020, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tình Bình Dương xử phạt Nguyễn Minh Đ 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 74/2020/HSST. Bị cáo Đ đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/02/2021 và đóng án phí hình sự ngày 15/6/2020.

Tiền sự: Không Ngày 09/4/2022, Nguyễn Minh Đ bị bắt, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2.Nguyễn Quốc H; sinh năm 1987, tại B, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 3, khu phố 3A, phường T, thị xã B, tỉnh B, quốc tịch: Việt Nam, dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không, trình độ học vấn: 7/12, nghề nghiệp: Không. Con ông Nguyễn Quốc V và bà Trần Thị L.

Nhân thân:

- Ngày 11/11/2009, Tòa án nhân dân Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Nguyễn Quốc H 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đối với hành vi thực hiện ngày 09/6/2009 theo Bản án số 177/2009/HSST. H đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/6/2010 và đóng án phí hình sự ngày 03/01/2010.

- Ngày 25/8/2016, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tình Bình Dương xử phạt Nguyễn Quốc H 03 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” đối với hành vi thực hiện ngày 05/01/2016 theo Bản án số 245/2016/HSST. H đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/9/2018 và đóng án phí hình sự ngày 24/11/2016.

Ngày 09/4/2022, Nguyễn Quốc H bị bắt, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Lê Kim H1, sinh năm 1997, địa chỉ: Tổ 12, thôn C, xã H, thị xã Đ, tỉnh P. Có đơn xin vắng mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Lê Thị P, sinh năm 1977, địa chỉ: Tổ 4, khu phố 3, phường T, thị xã B, tỉnh B. Có đơn xin vắng mặt

2. Bà Trần Thị L, khu phố 3A, phường T, thị xã B, tỉnh B. Có đơn xin vắng mặt

3. Bà Hoàng Thị Đ1, sinh năm 1972, đại chỉ: Khu phố 3, phường T, thị xã B, tỉnh B. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Quốc H là bạn bè quen biết, đều nghiện ma túy và không có nghề nghiệp. Khoảng 09 giờ ngày 05/4/2022, H điều khiển xe mô tô biển số 61N4 - 8437 đến nhà Đ ở tổ 19, khu phố 3, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và chở Đ đi đến khu vực xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một người không rõ lai lịch mua 200.000 đồng ma túy, rồi cả hai đến bãi đất trống gần đó sử dụng hết.

Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển số 61N4 – 8437 chở Đ đi về. Trên đường về đến địa bàn thị xã Bến Cát, Đ nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy tiếp tục sử dụng nên rủ H đi tìm tài sản của chủ sở hữu để sơ hở thì H đồng ý. Khoảng 13 giờ cùng ngày, khi đi ngang qua nhà trọ ông Nguyễn Thanh M thuộc tổ 17, khu phố 2, phường T, thị xã B, Đ và H phát hiện phía trước phòng trọ số 1 có chị Lê Kim H1 đang nằm ngủ trên võng, trên bàn đặt cạnh võng có để một chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51, màu xanh, gắn sim số 0963.422.354, H dừng xe mô tô cách chỗ chị H1 khoảng 10m, còn Đ tháo dép đi chân đất lén lút đi lại cầm lấy điện thoại hiệu Samsung Galaxy A51 rồi quay ra ngồi lên xe cho H điều khiển chở chạy đi. Trên đường đi, Đ tháo sim số 0963.422.354 ra cất giữ và kiểm tra thấy điện thoại có cài mật khẩu nên kêu H chở Đ đến cửa hàng sửa chữa điện thoại 279, địa chỉ: Tổ 12, khu 2, phường H, thành phố T để mở mật khẩu. Tại đây, H nói dối với chị Nguyễn Thị Thu T là quản lý cửa hàng, điện thoại do con nhỏ cầm nghịch nên bị khóa. Chị T tin tưởng nên đồng ý mở khóa điện thoại với giá 250.000 đồng. Sau khi mở được mật khẩu điện thoại, H điều khiển xe mô tô 61N4 - 8437 chở Đ đến tiệm cầm đồ Đ, địa chỉ: Đường NE8, khu phố 3, phường T, thị xã B, tỉnh B để yêu cầu cầm cố điện thoại lấy trộm. Lúc này, chị Lê Thị P (sinh năm 1977, HKTT: Tổ 4, khu phố 3A, phường T, thị xã B, tỉnh B) là quản lý tiệm không biết điện thoại Samsung Galaxy A51 do H và Đ chiếm đoạt mà có nên đồng ý cầm với số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng). Tiền có được, H chia cho Đ 1.200.000 đồng, H giữ 1.300.000 đồng. Chiều ngày 07/4/2022, H đến tiệm cầm đồ Đ gặp chị P lấy thêm tiền cầm cố điện thoại là 200.000 đồng.

Ngày 07/4/2022, Đ lấy sim điện thoại số 0963.422.354 gắn vào điện thoại của Đ để sử dụng thì nhận được cuộc gọi của chị Lê Kim H1. Chị H1 xin Đ cho chuộc lại điện thoại và sim số 0963.422.354 thì Đ hẹn chiều ngày 08/4/2022 đến phòng trọ gặp H1. Khoảng 18 giờ ngày 08/4/2022, Đ đến phòng trọ của chị H1 thì bị lực lượng Công an phường Tân Định mời Đ về trụ sở làm việc. Sau đó vụ việc được Công an phường Tân Định chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 09/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát tiến hành bắt giữ khẩn cấp đối với Đ, H.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) biên nhận cầm đồ ngày 05/4/22 và 01 (một) xe mô tô biển số 61N1-8437 của Nguyễn Quốc H.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51 màu xanh tại tiệm cầm đồ Đại Dương.

- 01 sim điện thoại 0963.422.354.

Theo Kết luận định giá tài sản số 43 ngày 14/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Bến Cát, kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51 trị giá 3.960.000đ (ba triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).

Đối với xe mô tô biển số 61N1-8437, xe do mẹ của Nguyễn Quốc H là bà Trần Thị L đứng tên đăng ký. Bà L cho H mượn xe mô tô làm phương tiện đi lại.

Ngày 15/4/2022 và ngày 07/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát ra Quyết định xử lý vật chứng số 86, 156 trao trả: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51, màu xanh và sim số 0963.422.354 cho chị Lê Kim H1; 01 xe mô tô biển số 61N1-8437 cho bà Trần Thị L.

Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Quốc H tác động mẹ của mình là bà Trần Thị L và bà Hoàng Thị Đ1 bồi thường chị Lê Thị P số tiền 2.700.000đ (hai triệu bảy trăm nghìn đồng). Chị H1, chị P không yêu cầu gì khác Tại bản Cáo trạng số 135/CT-VKSBC ngày 04/8/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Quốc H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoàn 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Quốc H về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoàn 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đánh giá các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dung: Khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Đ từ 12 đến 14 tháng tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dung: Khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo H từ 10 đến 12 tháng tù.

- Bị cáo Đ và bị cáo H: Thống nhất với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, đồng ý tội danh, mức hình phạt đã đề nghị và không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có thể sớm trở về hoà nhập cộng đồng và phụ giúp gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Phương, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 13 giờ ngày 05/4/2022, tại nhà trọ Nguyễn Thanh M thuộc tổ 17, khu phố 2, phường T, thị xã B, Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Quốc H đã có hành vi lén lút cùng nhau lấy trộm 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51 trị giá 3.960.000đ (ba triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng) của chị Lê Kim H1. Sau đó, Đ và H đem điện thoại đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân hết. Các bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Do đó, bản Cáo trạng số 135/CT-VKSBC ngày 04/8/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Quốc H về tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi các bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ.

Về nhận thức, các bị cáo từng bị Tòa án xét xử về tội trộm cắp tài sản nên hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện thái độ thiếu ý thức, liều lĩnh, xem thường pháp luật. Các bị cáo phạm tội với tính chất đồng phạm giản đơn. Có vai trò ngang nhau trong việc thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải có một mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục các bị cáo, đồng thời phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra c ng như tại phiên tòa, bị cáo Đ và H đều thành khẩn khai báo; ăn năn, hối cải; các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; tài sản đã trả lại cho bị hại; bị cáo Đ tham gia nghĩa vụ quân sự tại Trung đoàn 1, Sư đoàn 9; nên bị cáo Đ và H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đ tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Xét thấy, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[ 6] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51, màu xanh và sim số 0963.422.354 trao trả cho chị Lê Kim H1 là phù hợp.

- Xe mô tô biển số 61N1-8437 do H sử dụng là của bà Trần Thị L. Bà L cho H mượn xe và không biết H sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản nên trao trả xe cho bà L là phù hợp [7] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu các bị cáo bồi thường về trách nhiệm dân sự nên không xem xét.

[8] Về án phí: Các bị cáo Đ và H phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và mức hình phạt:

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Đ phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Đ 01 (một) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2022.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H 10 (mười) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét

3. Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Minh Đ và Nguyễn Quốc H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

- Các bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

115
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 146/2022/HS-ST

Số hiệu:146/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về