TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 146/2022/HS-PT NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 618/2021/TLPT-HS ngày 31 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo Nguyễn Thanh T; Trần Thanh T1; Vũ Đức Q; Phạm Thanh T và Nguyễn Hồng P do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thanh T; Trần Thanh T1; Vũ Đức Q; Phạm Thanh T và Nguyễn Hồng P đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2021/HS-ST ngày 19/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị:
1. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1986 tại thành phố Cần Thơ; HKTT: tổ 10, khu phố T2, phường P1, thị xã P2, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: kinh doanh dịch vụ vận tải; trình độ học vấn: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Thành C(đã chết) và bà Vũ Thị N (sinh năm 1960); Gia đình bị cáo có 07 người con, bị cáo là con thứ 4; Vợ: Phạm Thị Thanh X, sinh năm 1987; bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: không.
Bị bắt ngày 17-4-2021 (có mặt tại phiên tòa).
2. Trần Thanh T1, sinh năm 1982 tại Đồng Nai; HKTT: khu phố M, phường M1, thị xã P2, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: mua bán phế liệu; trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: (không); con ông Trần Văn H(sinh năm 1954) và bà Nguyễn Thị B(sinh năm 1957); Gia đình bị cáo có 05 người con, bị cáo là con thứ 2; Vợ: Nguyễn Thị Ánh H1, sinh năm 1984; bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: không.
Bị bắt ngày 17-4-2021 (có mặt tại phiên tòa).
3. Vũ Đức Q, sinh năm 1988 tại thành phố Cần Thơ; HKTT: ấp 3, xã S, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Tài xế ô tô tải; trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Thiên chúa; con ông Vũ Văn T3 (đã chết) và bà Phạm Thị T4(sinh năm 1957); Gia đình bị cáo có 04 người con, bị cáo là con thứ 2; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: không.
Bị bắt ngày 17-4-2021 (có mặt tại phiên tòa).
4. Phạm Thanh T, sinh năm 1986 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; HKTT: tổ 15, khu phố X1, phường T5, thị xã P2, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Tài xế ô tô tải; trình độ học vấn: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; con ông Phạm Văn T6(sinh năm 1954) và bà Nguyễn Thị P3(sinh năm 1957); Gia đình bị cáo có 09 người con, bị cáo là con thứ 4; Vợ: Võ Thị Thúy N1 (sinh năm 1987); Bị cáo có 01 con sinh năm 2011. Tiền án, tiền sự: không.
Bị bắt ngày 17-4-2021 (có mặt tại phiên tòa).
5. Nguyễn Hồng P, sinh năm 1989 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; HKTT: ấp P4, xã T7, thành phố B1, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Tài xế ô tô tải; trình độ học vấn: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Hồng C1(sinh năm 1962) và bà Phạm Thị K(sinh năm 1966); Gia đình bị cáo có 03 người con, bị cáo là con thứ 2; Vợ: Trần Thị Thúy D(sinh năm 1990); bị cáo có 01 con sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: không.
Bị bắt ngày 17-4-2021 (có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Nguyễn Thanh T: Ông Nguyễn Văn T8, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Trần Thanh T1: Ông Hồ Hoài N2, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Vũ Đức Q: Ông Nguyễn Thanh Bảo D1, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Phạm Thanh T và bị cáo Nguyễn Hồng P: Ông Trịnh Bá T9, Luật sư thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
(Ngoài ra, trong vụ án có bị cáo Phạm Văn B2 không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Hoàng Trọng T10 là Giám đốc Công ty TNHH TM - DV P5 có ký kết hợp đồng vận chuyển sắt phế liệu (sắt băm) từ cảng P6về nhà máy của Công ty CP thép P6 ở khu công nghiệp P2 2, thị xã P2, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngày 14-4-2021, ông T10 ký hợp đồng thuê vận chuyển với Nguyễn Thanh T, giá thỏa thuận là 21.000đồng/tấn. Sau đó, Nguyễn Thanh T liên lạc với các tài xế Nguyễn Hồng P, Vũ Đức Q, Phạm Thanh T và Phạm Văn B2 chuẩn bị xe ô tô tải để vận chuyển sắt phế liệu cho Công ty P6. Do đã từng vận chuyển sắt phế liệu cho Công ty trên nên Nguyễn Thanh T biết được sơ hở trong khâu quản lý là sau khi xe ô tô lấy sắt phế liệu ở cảng P6 sẽ đến trạm cân ở cổng số 2, cân xong lấy phiếu thì tự lái xe vào bãi phế liệu của công ty (cách đó khoảng 02km) đổ phế liệu mà không có người giám sát nên Nguyễn Thanh T nảy sinh ý định trộm cắp sắt phế liệu bán lấy tiền tiêu xài. Vì vậy, Nguyễn Thanh T gọi điện thoại và gặp Trần Thanh T1 để thỏa thuận việc bán phế liệu sau khi trộm cắp được của Công ty P6 và được T1 đồng ý mua với giá 7.100đ/kg. T1 dẫn T đến vị trí bãi phế liệu do T1 thuê nằm đối diện Công ty kẽm Hoa Sen thuộc khu công nghiệp P2 2, để T đổ sắt phế liệu sau khi lấy trộm được.
Sau đó Nguyễn Thanh T liên lạc và gặp riêng từng tài xế sẽ chở sắt phế liệu cho Công ty P6 là Nguyễn Hồng P, Phạm Thanh T, Phạm Văn B2 và Vũ Đức Q để bàn bạc và hướng dẫn họ lấy trộm phế liệu bằng cách sau khi xe lấy sắt phế liệu từ cảng P6 chạy đến cổng số 2, cân xong lấy phiếu xe chạy vào bãi phế liệu của Công ty P6 nhưng không đổ xuống hoặc chỉ đổ một ít rồi điều khiển xe chở sắt phế liệu đến kho bãi của T1 đổ xuống theo chỉ dẫn của Nguyễn Thanh T. Số sắt phế liệu trộm được T sẽ bán cho T1 rồi chia tiền cho các tài xế theo thỏa thuận. Từ đêm 14-4-2021 đến rạng sáng 15-4-2021, xe ô tô do Vũ Đức Q điều khiển mang biển kiểm soát: 72C-170.99 trộm được 08 chuyến chở sắt phế liệu; xe ô tô BKS: 72H-003.44 do Phạm Thanh T điều khiển trộm được 04 chuyến phế liệu; xe ô tô BKS: 72C-167.05 do Nguyễn Hồng P điều khiển trộm được 03 chuyến phế liệu; xe ô tô BKS: 72C-171.48 do Phạm Văn B2 điều khiển trộm được 03 chuyến phế liệu. Tổng trọng lượng của 18 chuyến sắt chở phế liệu theo phiếu cân của Công ty P6 là 285.660kg. Cơ quan CSĐT Công an thị xã P2 đã thu giữ tại kho bãi chứa phế liệu của Trần Thanh T1 271.200 kg sắt phế liệu, do quá trình vận chuyển sắt phế liệu để tránh bị phát hiện các tài xế vào bãi đổ phế liệu của Công ty P6 đổ xuống một ít rồi mới chạy đến kho bãi của T1 đổ số sắt phế liệu còn lại nên khối lượng sắt phế liệu thu giữ ít hơn khối lượng trên phiếu cân của Công ty P6.
Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an thị xã P2 cũng đã tạm giữ 04 xe ô tô BSK: 72C-167.05, 72C-170.99, 72C-171.48 và 72H-003.44; 01 (một) USB hiệu Transcend màu đen, tím 32G bên trong có chứa dữ liệu video liên quan đến hai xe ô tô tải mang biển kiểm soát 72C-167.05, 72C-170.99 chở sắt phiếu liệu tại Công ty P6 Vina ngày 15-4-2021; 01 (một) USB hiệu Transcend màu đen, tím 32G chứa dữ liệu trích xuất tại cổng 2 của Công ty P6 Vina; 01 (một) USB màu xanh trắng có dòng chữ “Posco Yamato Vina Steel ” và các phiếu cân:
+ 02 (hai) phiếu cân xe mang BKS: 72C-167.05;
+ 02 (hai) phiếu cân xe mang BKS: 72C-170.99;
+ 02 (hai) phiếu vận chuyển của xe BKS: 72C-167.05;
+ 02 (hai) phiếu vận chuyển của xe BKS: 72C-170.99;
+ 13 (mười ba) bản photo ghi là phiếu cân của xe ô tô tải BKS: 72C- 170.99 khi đi vào cổng 2 của Công ty P6 ngày 14-4-2021, 15-4-2021 (có chữ ký của ông Phạm Văn Việt);
+ 07 (bảy) bản photo ghi là phiếu cân của xe BSK: 72C-167.05 khi đi vào cổng 2 của Công ty P6 ngày 14-4-2021, 15-4-2021 (có chữ ký của ông Phạm Văn Việt);
+ 13 (mười ba) bản photo ghi là phiếu cân của xe ô tô BSK: 72C-003.44 khi đi vào cổng 2 của Công ty P6 ngày 14-4-2021, 15-4-2021 (có chữ ký của ông Phạm Văn Việt);
+ 10 (mười) phiếu cân xe của ô tô BSK: 72C-170.99. Trong đó, có 06 phiếu ký hiệu số 209730 Hoàng Phi Long, 04 phiếu ký hiệu 221548 Phạm Ngọc Thành, trên phiếu có chữ Posco Yamato Vina STEEL;
+ 18 (mười tám) phiếu cân xe có chữ ký xác nhận của Nguyễn Thanh T trên từng phiếu.
Đối với hành vi sử dụng biển số kiểm soát 72C-167.05 (giả) của Nguyễn Thanh T, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã chuyển biển số xe cùng tài liệu liên quan đến Công an thị xã P2 để xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.
* Kết quả giám định:
Kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐ.ĐGTS ngày 18/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND thị xã P2 kết luận 285,66 tấn x 11.493.125 đồng/tấn sắt phế liệu có trị giá là 3.283.126.088 đồng. Như vậy, tổng trị giá của 271,20 tấn phế liệu mà Nguyễn Thanh T cùng đồng bọn trộm cắp được (271,20 tấn x 11.493.125 đồng/tấn) là 3.116.935.500đ (Ba tỷ, một trăm mười sáu triệu, chín trăm ba mươi lăm ngàn, năm trăm đồng).
* Về trách nhiệm dân sự:
Ngày 28-4-2021 Cơ quan CSĐT Công an thị xã P2 đã trả lại cho Công ty P6 271,20 tấn sắt phế liệu, Công ty P6 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.
* Về vật chứng:
- Vật chứng chuyển theo hồ sơ vụ án:
+ 01 (một) giấy phép lái xe hạng E số 750123019260 mang tên Vũ Đức Q;
+ 01 (một) giấy chứng minh nhân nhân dân số 272010349 mang tên Vũ Đức Q;
+ 01 (một) giấy phép lái xe hạng C số 790158109745 mang tên Nguyễn Hồng P;
+ 01 (một) giấy căn cước công dân số 077089002437 mang tên Nguyễn Hồng P;
+ 01 (một) xe ô tô tải mang biển số kiểm soát: 72C-170.99;
+ 01 (một) xe ô tô tải mang biển số kiểm soát: 72C-171.48;
+ 01 (một) xe ô tô tải mang biển số kiểm soát: 72H-003.44;
+ 01 (một) xe ô tô tải có số khung: LZZ5EXSE8AN499854; số máy:
WD61596E100507054077;
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2021/HS-ST ngày 19/11/2021 Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Vũ Đức Q, Phạm Thanh T, Nguyễn Hồng P, Phạm Văn B2 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Nguyễn Thanh T 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Trần Thanh T1 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Vũ Đức Q 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Nguyễn Hồng P12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Phạm Thanh T11 (mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Ngoài ra, bản án còn tuyên xử phạt Phạm Văn B2 11 (mười một) năm tù, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 23; 25; 29/11/2021 và ngày 01; 02/12/2021 các bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Phạm Thanh T, Vũ Đức Q, Nguyễn Hồng Pcó đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Vũ Đức Q, Phạm Thanh T, Nguyễn Hồng Pvẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm: Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Án sơ thẩm xét xử cho rằng các bị cáo chưa thu lợi gì, phạm tội lần đầu. Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, áp dụng điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo phạm tội lần đầu nhưng thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Bố bị cáo T1 là bệnh binh, án sơ thẩm cũng đã nhận định. Các bị cáo kháng cáo không phát sinh tình tiết giảm nhẹ mới. Án sơ thẩm xét xử các bị cáo tương xứng với tính chất mức độ với hành vi phạm tội của các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
Bị cáo Nguyễn Thanh T trình bày: Bị cáo phạm tội, tài sản trả hết cho công ty, mức án cấp sơ thẩm xét xử là cao.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T trình bày: Tội danh luật sư không tranh luận. Mức hình phạt quá nghiêm khắc. Mức án 15 năm tù là quá cao vì chủ sở hữu đã nhận lại tài sản, chưa gây thiệt hại. Người bị hại không yêu cầu bồi thường. Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ thì có thể áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Trần Thanh T1 trình bày: Tội danh của bị cáo chưa phù hợp. Bị cáo đã thỏa thuận với bị cáo Nguyễn Thanh T mua bán phế liệu do Nguyễn Thanh T mang đến. Bị cáo là chủ trạm thu mua phế liệu trên địa bàn. Bị cáo không có tham gia trộm cắp. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội trộm cắp tài sản là không đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử chuyển tội danh xét xử bị cáo tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ cấp sơ thẩm đã xem xét, gia đình bị cáo khó khăn, lao động chính, ba bị cáo là thương binh, cấp sơ thẩm ghi nhận nhưng chưa áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chuyển tội danh và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Trần Thanh T1 trình bày: Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo, bị cáo mua phế liệu, bị cáo không có trộm cắp tài sản.
Bị cáo Vũ Đức Q trình bày: Bị cáo phạm tôi chưa gây thiệt hại, thành khẩn khai báo, thu hồi lại phế liệu cho chủ sở hữu, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Người bào chữa cho bị cáo Vũ Đức Q trình bày: Tội danh thống nhất. Mức án 13 năm tù là nặng. Phương pháp thủ đoạn của bị cáo không có tinh vi, cả nể nghe lời của bị cáo T, không có sự cấu kết chặt chẽ. Bị cáo đồng phạm giản đơn, làm công ăn lương. Phía công ty có lỗi do buông lỏng quản lý do đó dẫn đến lòng tham của bị cáo. Bị cáo Quang giúp sức cho bị cáo T thực hiện hành vi trộm. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Vũ Đức Q trình bày: Thống nhất ý kiến của người bào chữa.
Người bào chữa cho bị cáo Phạm Thanh T và Nguyễn Hồng P trình bày: Bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nhưng cần xem xét vai trò của các bị cáo trong vụ án. Tài sản đã được thu hồi, bị cáo chưa gây thiệt hại. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tài sản đã thu hồi, trả lại cho bị hại để giảm án cho các bị cáo.
Bị cáo Phạm Thanh T trình bày: Thống nhất ý kiến của người bào chữa. Bị cáo Nguyễn Hồng P trình bày: Thống nhất ý kiến của người bào chữa. Đại diện Viện kiểm sát tham gia tranh luận: Luật sư Nhân trình bày phải đổi tội danh cho bị cáo T1 là không có căn cứ vì bị cáo T bàn bạc với bị cáo T1 trước khi phạm tội, bàn bạc giao tài sản trộm đến. Các luật sư còn lại xin giảm nhẹ hình phạt, mặc dù các bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ nhưng ý thức coi thường pháp luật, cấu kết bán lại tài sản cho chính công ty lấy trộm. Các bị cáo xâm phạm quyền sở hữu tài sản, ảnh hưởng đến văn hóa lao động của người Việt và doanh nghiệp nước ngoài. Án sơ thẩm đã phân hóa vai trò của các bị cáo.
Tính chất phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Án sơ thẩm không áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự là có cơ sở. Đề nghị giữ y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Vũ Đức Q, Phạm Thanh T, Nguyễn Hồng P thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm đã nêu.
Trong khoảng thời gian từ đêm ngày 14-4-2021 đến rạng sáng ngày 15-4- 2021, tại Công ty CP thép P6 ở khu công nghiệp P2 2, thị xã P2, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Vũ Đức Q, Phạm Thanh T, Nguyễn Hồng P và Phạm Văn B2 đã có hành vi trộm cắp 271,20 tấn sắt phế liệu (sắt băm) có tổng trị giá là 3.116.935.500 đồng (theo Kết luận định giá tài sản số 64/KL-HĐ.ĐGTS ngày 18-5-2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND thị xã P2, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) của Công ty CP thép P6.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Vũ Đức Q, Phạm Thanh T, Nguyễn Hồng P và đề nghị của luật sư bào chữa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[3.1] Về tội danh: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Vũ Đức Q, Phạm Thanh T, Nguyễn Hồng P theo điểm a khoản 4 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3.2] Về hình phạt:
Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của pháp nhân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an trong xã hội. Các bị cáo lợi dụng sự tin tưởng trong hợp đồng thuê vận chuyển của bên thuê và sơ hở của chủ sở hữu tài sản lén lút thực hiện hành vi trộm cắp của mình; cùng cố ý thực hiện tội phạm, tuy nhiên không có sự cấu kết chặt chẽ, không phân công nhiệm vụ thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn.
Nguyễn Thanh T là người cầm đầu, trực tiếp rủ rê các bị cáo khác tham gia thực hiện việc trộm cắp tài sản, chủ động liên hệ với người tiêu thụ tài sản trộm cắp từ trước, chỉ dẫn các bị cáo cách thức lấy trộm tài sản để tránh sự phát hiện của chủ sở hữu tài sản.
Nguyễn Thanh T gọi điện và gặp T1 để thỏa thuận việc bán phế liệu sau khi trộm cắp tài sản được của công ty và T1 đồng ý mua. T1 dẫn T đến vị trí bán phế liệu do T1 thuê để T đổ sắt phế liệu sau khi lấy trộm. Trần Thanh T1 là người giúp sức, giúp T và các đồng phạm khác có địa điểm cất giấu và bán tài sản trộm cắp được cho mình.
Các bị cáo Vũ Đức Q, Phạm Thanh T và Nguyễn Hồng P là người thực hành, giúp sức tích cực, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Vũ Đức Q trộm cắp 08 chuyến. Phạm Thanh T trộm cắp 04 chuyến và Nguyễn Hồng Ptrộm cắp 03 chuyến; giá trị tổng số chuyến của các bị cáo đều trên 500.000.000đ. Bị cáo Phước mặc dù trộm cắp 03 chuyến nhưng tổng trọng lượng cao thứ hai, bị cáo Phạm Thanh T mặc dù trộm cắp 04 chuyến nhưng tổng trọng lượng thấp nhất.
Tòa án cấp sơ thẩm đã phân hóa vai trò, đánh giá tình chất mức độ phạm tội của các bị cáo, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản phạm tội đã được phát hiện thu hồi trả ngay cho người bị hại, các bị cáo chưa kịp mua bán giao nhận tiền, bị hại xác định tài sản thiệt hại đã nhận đủ và không yêu cầu bồi thường gì thêm, chưa gây ra thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo T1 có bố là bệnh binh nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tính chất phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3.3] Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, không có tình tiết gì mới. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đề nghị.
Ý kiến của người bào chữa cho các bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[4] Do không được chấp nhận kháng cáo, các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.
2015;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Vũ Đức Q, Phạm Thanh T, Nguyễn Hồng P. Giữ nguyên án sơ thẩm.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Nguyễn Thanh T 15 (mười lăm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Trần Thanh T1 14 (mười bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Vũ Đức Q 13 (mười ba) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Nguyễn Hồng P 12 (mười hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Phạm Thanh T 11 (mười một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 4 năm 2021.
2. Các nội dung khác trong quyết định Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2021/HS-ST ngày 19/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Trần Thanh T1, Vũ Đức Q, Phạm Thanh Tvà Nguyễn Hồng P, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 146/2022/HS-PT
Số hiệu: | 146/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về