Bản án về tội trộm cắp tài sản số 146/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 146/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 133/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 141/QĐXXST-HS ngày 16/12/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Mạnh C (tên gọi khác: Không); sinh ngày 04 tháng 3 năm 1998 tại Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: tổ 44B, khu 12, phường Q Tr, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Ch, sinh năm: 1960 và bà Bùi Thị T, sinh năm: 1957; vợ con chưa có; tiền án: Ngày 02/11/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong án phạt tù về địa phương ngày 04/02/2020; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 03/4/2012 bị áp dụng biện pháp đưa vào Trường giáo dưỡng số 2 tỉnh Ninh Bình, ngày 11/11/2013 chấp hành xong về cư trú tại địa phương; ngày 26/01/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; đầu thú, tạm giữ từ ngày 30/9/2020 đến ngày 09/10/2020, tạm giam từ ngày 09/10/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Tổ 1, khu 8, phường Th S, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Anh Phạm Duy Ph, sinh năm 1996. Nơi cư trú: Thôn Đạo Dương, xã B D, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Tổ 2, khu Tân Lập 1, phường Ph Đ, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

3. Ông Đỗ Văn Ch, sinh năm 1960. Nơi cư trú: Tổ 44, khu 12, phường Q Tr, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 30/9/2020, Đỗ Mạnh C (có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”) một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu PREALMII biển kiểm soát 14F9-6641 (của bố C là ông Đỗ Văn Ch) đi chơi. Khi đi ngang qua nhà anh Nguyễn Văn Tr trú tại số nhà 48B, đường Hoàng Quốc Việt, phường Th S, thành phố Uông Bí, C thấy 02 giỏ cây phong lan của anh Tr treo trên cây sấu trước cửa nhà, một giỏ có 01 nhánh cây hoa phong lan loại lan “Phi Điệp” dài khoảng 20cm; Giỏ còn lại có 14 nhánh cây hoa phong lan loại lan “Đùi Gà” (trong đó: Nhánh dài nhất khoảng 73cm, nhánh ngắn nhất khoảng 03cm), liền nảy sinh ý định trộm cắp, mục đích đem về nhà trồng. Quan sát xung quanh không có ai, C dựng xe mô tô sát vị trí gốc cây sấu, dùng một chiếc chổi quét rác có cán bằng Inox màu trắng, dài khoảng 01 mét ở tường sát cửa nhà anh Tr gỡ móc treo khỏi thân cây sấu để lấy hai giỏ cây hoa lan trên. Sau khi lấy được hai giỏ cây hoa phong lan, C thấy vị trí hoa phong lan “Đùi Gà” rơi có mùn đất, nên C dùng chổi quét vào gốc cây sấu rồi treo chổi về vị trí cũ. Sau đó, C cầm 02 giỏ lan bằng tay phải, điều khiển xe mô tô bằng tay trái về nhà. Trên đường đi, C làm rơi giỏ cây hoa phong lan loại “Phi Điệp” xuống nền đường, làm vỡ giỏ đựng bằng gốm. C nhặt lại nhánh cây phong lan loại “Phi Điệp” cho vào chung với giỏ cây phong lan loại “Đùi Gà” rồi mang về để ở nhà. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, C nghe biết được thông tin nhà anh Tr có Camera an ninh quay lại được hình ảnh C trộm cắp hai giỏ cây hoa phong lan và đang đi tìm C. Nên C đã đem giỏ đựng toàn bộ số cây hoa phong lan trộm cắp đến trả cho anh Tr. Anh Tr sau đó đến Công an thành phố Uông Bí giao nộp số cây hoa phong lan trên, trình báo sự việc.

Chiều ngày 30/9/2020, Đỗ Mạnh C đến Công an thành phố Uông Bí đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Cơ quan điều tra đã tiến hành tạm giữ của C 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu PREALMI I, số khung số máy đã bị tẩy xóa, biển kiểm soát 14F9-6641.

- Kết luận định giá tài sản số 47/KL-HĐĐGTS ngày 07/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản- Ủy ban nhân dân thành phố Uông Bí kết luận: 01 giỏ hoa phong lan có 14 nhánh, loại lan đùi gà, nhánh dài nhất 74cm, nhánh ngắn nhất dài khoảng 03cm trị giá 300.000 đồng; 01 nhánh hoa phong lan, loại lan phi điệp, dài khoảng 20cm trị giá 200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 500.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 135/KSĐT-HS ngày 25/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Đỗ Mạnh C về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Đỗ Mạnh C từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bị tạm giữ 30/9/2020, về tội “Trộm cắp tài sản”;

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và nhận thức được hành vi phạm tội của mình, thấy ăn năn hối cải. Lời nói sau cùng, bị cáo đã thấy ân hận về hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Bị hại anh Nguyễn Văn Tr và những người làm chứng: Anh Phạm Duy Ph, ông Đỗ Văn Ch, anh Nguyễn Văn Đ, đều có lời khai tại cơ quan điều tra có trong hồ sơ vụ án phù hợp với nội dung sự việc như đã nêu trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội đối với bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại và những người làm chứng, phù hợp với kết luận định giá tài sản, vật chứng thu giữ, video ghi lại hành vi của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa hôm nay. Bị cáo khẳng định việc truy tố đối với bị cáo là đúng người đúng tội; không oan, sai. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội khi chưa được xóa án tích đối với hành vi phạm tội cùng loại tội. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 02 giờ ngày 30/9/2020, tại số nhà 48B, đường Hoàng Quốc Việt, phường Thanh Sơn, thành phố Uông Bí, Đỗ Mạnh C (có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”) có hành vi trộm cắp 02 giỏ hoa phong lan, trị giá 500.000 đồng của anh Nguyễn Văn Tr. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, đây là một trong những quyền được pháp luật Nhà nước bảo vệ, nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành, có nhận thức đầy đủ về hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì hám lợi, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản, hiện đang có tiền án về hành vi cùng loại tội.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã đầu thú, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải, tài sản trộm cắp đã trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì khác, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

[3.4] Về hình phạt chính: Từ những đánh giá, phân tích nêu trên, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo, cần có một hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Nhưng dù xem xét đến đâu cũng cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để răn đe cải tạo, giáo dục bị cáo để thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (Năm triệu đồng) đến 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng và bồi thường dân sự: Đối với 02 giò lan C trộm cắp, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Văn Tr. Anh Tr không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự; Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu PREALMII biển kiểm soát 14F9-6641, số khung số máy đã bị tẩy xóa, không xác định được nguồn gốc nên Cơ quan điều tra đã tách ra, xử lý theo quy định;

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định;

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại có quyền kháng cáo Bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Mạnh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

- Xử phạt: bị cáo Đỗ Mạnh C 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 30/9/2020.

2. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đỗ Mạnh C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp vào Ngân sách Nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo: Áp dụng: Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Đỗ Mạnh C có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 146/2020/HS-ST

Số hiệu:146/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về