Bản án về tội trộm cắp tài sản số 142/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 142/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2022/TLST- HS ngày 20 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Thanh N, sinh năm 2000 tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: Ấp Tân Hưng, xã T, huyện N, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà V, sinh năm 1977; Cha không rõ; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tại ngoại. Có mặt.

Bị hại: Thạch Thị T, sinh năm 2003; địa chỉ: khu phố 1, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Chí T1, sinh năm 1994; Địa chỉ: Ấp Cái Đôi, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau. Vắng mặt.

- Ông Trịnh Văn L, sinh năm 1990; địa chỉ Tổ 4, khu phố 8, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương – Chủ tiệm cầm đồ H. Người đại diện hợp pháp: ông Trịnh Văn T, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ 1, khu phố 3, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người làm chứng: Bà Trần Thị T2, sinh năm 1991. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 07/10/2021, N đang ở phòng trọ do không có tiền tiêu xài nên N đi vòng quanh khu nhà trọ Sáng Vân 1 tìm tài sản của người khác để sơ hở để trộm cắp. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày, N đi ngang qua phòng trọ A44 của T , thì nhìn thấy cửa phòng khép hờ nên N đẩy cửa đi vào bên trong phòng trọ của T , lúc này T đang ngủ trên nệm, dưới nền gạch bên cạnh chổ T nằm ngủ có để 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20s nên N lấy trộm 02 điện thoại của T bỏ vào túi quần. Sau đó, N quay về phòng trọ cất giấu trong học tủ dưới chân cầu thang trong phòng trọ. Ngày 10/10/2021, T1 đến phòng trọ của N để chơi, tại đây T1 nhìn thấy N cầm điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus trên tay nên mượn xem, T1 kiểm tra ví Momo của T có số tiền khoảng hơn 2.000 đồng nên nói với N cho chuyển số tiền 2.000 đồng vào tài khoản của T1 để T1 sử dụng mạng điện thoại thì N đồng ý, sau khi chuyển xong T1 trả điện thoại lại cho Nhựt. Khoảng 14 giờ ngày 11/10/2021, do không có tiền tiêu xài, N đem điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20s đến tiệm cầm đồ H thuộc khu phố 1, phường Hội Nghĩa, thị xã T, tỉnh Bình Dương, tại đây N gặp bà Trần Thị T2 là chủ tiệm cầm đồ H cầm điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20s với số tiền 1.200.000 đồng.

Đến khoảng 05 giờ 30 phút ngày 07/10/2021 T thức dậy phát hiện điện thoại bị mất nhưng không biết ai đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 10/10/2021, T phục hồi sim điện thoại sau đó truy cập vào tài khoản ví Momo phát hiện số tiền 2.000 đồng chuyển vào số điện thoại của Nguyễn Chí T1. Ngày 11/10/2021, T đến Công an phường H trình báo vụ việc bị mất trộm. Công an phường H mời T1 đến làm việc, T1 khai nhận ngày 10/10/2021, T1 đến phòng trọ của N để chơi và có mượn điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu hồng sau đó chuyển số tiền 2.000 đồng vào số điện thoại của T1. Trên cơ sở lời khai của T1, Công an phường H tiến hành mời N đến làm việc, N khai nhận hành vi trộm cắp điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20s và điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu hồng của T.

Công an phường H tiến hành tạm giữ đồ vật, tài liệu liên quan gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu hồng (do Trần Thanh N giao nộp); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo (do Nguyễn Chí T1 giao nộp). Sau khi hoàn tất hồ sơ ban đầu, Công an phường H đã chuyển toàn bộ hồ sơ cùng vật chứng, tài liệu đồ vật liên quan đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 157 ngày 26/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản thị xã T kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu hồng, kiểu máy MQ8V2LL/A, số sêri FD2VL09BJCM4, đã qua sử dụng có giá trị 6.330.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20s màu xanh đen, kiểu máy SM-A207F/DS, số sêri R9AM916Y8TJ, đã qua sử dụng có giá trị 2.270.000 đồng. Tổng giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 8.600.000 đồng.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh là tài sản của ông Nguyễn Chí T. Ngày 26/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 05 trả lại 02 điện thoại nêu trên cho ông T1, ông T1 đã nhận tài sản và không yêu cầu gì khác.

Đối với hành vi nhận cầm cố điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20s của bà Trần Thị T2. Qua điều tra xác định, bà Thuận không biết đây là tài sản do bị cáo Trần Thanh N chiếm đoạt của bà Thạch Thị T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T không xem xét xử lý.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu hồng, kiểu máy MQ8V2LL/A, số sêri FD2VL09BJCM4; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20s màu xanh đen, kiểu máy SM-A207F/DS, số sêri R9AM916Y8TJ là tài sản của bà Thạch Thị T. Ngày 26/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 04 trả lại 02 điện thoại nêu trên cho bà T , bà T đã nhận tài sản và không yêu cầu gì khác. Riêng đối với ông Trịnh Văn L – Chủ tiệm cầm đồ H yêu cầu bị cáo Trần Thanh N bồi thường số tiền 1.200.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 103/CT-VKS.TU ngày 12/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T quyết định: Truy tố bị cáo Trần Thanh N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung cáo trạng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng T1 tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thanh N từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trần Thanh N trả lại số tiền 1.200.000 đồng cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trịnh Văn L – chủ tiệm cầm đồ H.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương đã ra quyết định xử lý vật chứng số 04 trả lại tài sản cho bị hại T .

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Thanh N thống nhất với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không tranh luận gì thêm.

Bị cáo Trần Thanh N nói lời nói sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Bị hại bà Thạch Thị T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Chí T1, ông Trịnh Văn L, người làm chứng bà Trần Thị T2 vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, bà T , ông T1 và người đại diện hợp pháp cho ông L, người làm chứng bà T2 đã có lời khai đầy đủ. Bà T đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì khác. Vì vậy, việc vắng mặt của bà T , ông T1, ông L, bà T2 không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, căn cứ Điều 292 và Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người trên.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thanh N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 07/10/2021, tại phòng trọ số A44, khu nhà trọ Sáng Vân 1 thuộc khu phố 1, phường Hội Nghĩa, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Trần Thanh N đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của bà Thạch Thị T lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu hồng, kiểu máy MQ8V2LL/A, số sêri FD2VL09BJCM4, đã qua sử dụng có giá trị 6.330.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A20s màu xanh đen, kiểu máy SM-A207F/DS, số sêri R9AM916Y8TJ, đã qua sử dụng có giá trị 2.270.000 đồng. Tổng giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 8.600.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bị cáo với tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của bị hại. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả. Do đó, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo, rèn luyện, phấn đấu trở thành công dân có ích. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét toàn diện tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các T1 tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để có một hình phạt tương xứng nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung trong nhân dân.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Xét, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Trịnh Văn L – chủ tiệm cầm đồ H yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 1.200.000 đồng đây là tiền mà ông Trịnh Văn L đã đưa cầm điện thoại nhãn hiệu Samsung A20s. Khi ông Long cầm điện thoại này thì ông L không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có. Vì vậy, ông Trịnh Văn L yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 1.200.000 đồng là có cở sở chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương đã ra quyết định xử lý vật chứng số 04 ngày 26/11/2022 trả lại điện thoại trên cho bà T là phù hợp.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và biện pháp xử lý vật chứng là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh N 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về trách nhiêm dân sự: Buộc bị cáo Trần Thanh N phải trả cho ông Trịnh Văn L số tiền 1.200.000 đồng.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1, 3 Điều 21; khoản 1 Điều 23; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Thanh N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi, vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 142/2022/HS-ST

Số hiệu:142/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về