Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2023/TLST - HS, ngày 22 tháng 11 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2023/QĐXXST - HS, ngày 22 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo: NGUYỄN VĂN V - sinh ngày 05/7/1986 tại huyện C, tỉnh B; nơi ĐKHKTT: thôn T, xã Y, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: tày; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N và con bà: Ma Thị A; Có vợ là: Lương Thị C và có 02 (Hai) con; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: ngày 02/8/2001, Nguyễn Văn V bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn là 24 (hai mươi tư) tháng (Quyết định số 1317/QĐ - UB), đến nay được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

* Những người bị hại:

1. Chị Ma Thị T - sinh năm 1982. (Vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Văn T1 - sinh năm 1981. (Vắng mặt có lý do, có đơn xin xét xử vắng mặt).

(Anh Nguyễn Văn T1 đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của chị Ma Thị T)

Cùng trú tại: thôn T, xã Y, huyện C, tỉnh B.

* Người có quyền lợi liên quan: Anh Hoàng Văn T2 - sinh năm 1990; trú tại: thôn K, xã Y, huyện C, tỉnh B. (Vắng mặt có lý do, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/8/2023, Nguyễn Văn V một mình điều khiển xe mô tô BKS 97B1 - xxxxx, là xe của anh Lương Văn B (SN: 1966), trú tại thôn K, xã L, huyện N, tỉnh B từ nhà đi đến nhà anh Nguyễn Văn Đ ở thôn T, xã Y, huyện C, tỉnh B chơi. Khi đến nhà Đ, V ngồi sửa máy nổ tại nhà Đ, rồi sau đó sang nhà anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1981 (trú cùng thôn với Đ) để xin nước uống và mượn đồ sửa máy. Khi đến nhà T1 thì chỉ có cháu Nguyễn Thị Minh T3, sinh năm 2006 (con gái anh T1) ở nhà một mình. Sau khi T3 mở cổng cho vào nhà, V vào bếp uống nước và nhìn thấy ở góc bếp nhà anh T1 có một cái cưa lốc nhãn hiệu STIHLMS 210 màu cam nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc cưa lốc trên đem bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Lợi dụng lúc T3 ở trong nhà không để ý, V dùng hai tay kéo chốt bên trong cửa phụ nhà bếp mở hé ra, sau đó đi lên trên nhà chính và đi ra khỏi nhà anh T1. Ngay sau đó V đi vòng qua gara để xe ô tô ở bên trái nhà anh T1 rồi đi xuống phía sau nhà bếp anh T1 dùng hai tay mở cửa phụ nhà bếp mà V đã mở hé từ trước, V dùng tay phải xách chiếc cưa lốc ra cạnh đường, để sát tường nhà anh Đ rồi nhặt một bao tải màu trắng gần đó để cho cưa lốc vào trong và dùng xe mô tô BKS 97B1 - xxxxx chở về nhà. Khi đến nhà, V tháo lam, xích máy cưa lốc ra cho gọn rồi cho vào bao tải, tiếp tục dùng xe mô tô BKS 97B1 - xxxxx chở cưa lốc đến bán cho anh Hoàng Văn T2, sinh năm 1990, trú tại thôn K, xã Y, huyện C, tỉnh B với giá 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng). Sau khi bán được cưa lốc, V cầm tiền và đi vào khu vực khai thác vàng ở Khu ô, xã L, huyện N, tỉnh B và tiêu dùng cá nhân hết số tiền trên.

Ngày 21/8/2023, Nguyễn Văn T1 sau khi phát hiện bị mất chiếc cưa lốc đã trình báo vụ việc trên với Công an xã Y, huyện C, tỉnh B.

Hồi 23 giờ 05 phút, ngày 21/8/2023, Hoàng Văn T2 đã tự nguyện giao nộp 01 chiếc cưa lốc (là tang vật vụ án) và Công an xã Y, huyện C, tỉnh B đã tạm giữ tài sản trên theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn V thành khẩn khai nhận hành vi của mình về thời gian, địa điểm, loại tài sản trộm cắp. V khai nhận mục đích trộm cắp chiếc cưa lốc là để bán lấy tiền tiêu sài.

Quá trình điều tra xác định, chiếc cưa lốc nhãn hiệu STIHLMS 210 là tài sản chung của vợ chồng anh Nguyễn Văn T1, chị Ma Thị T.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 30/KL - HĐĐGTSTTHS ngày 05/9/2023 của hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận: Giá trị của chiếc cưa máy cầm tay (cưa lốc) nhãn hiệu STIHLMS 210 màu cam, lưỡi lam màu trắng tại thời điểm ngày 21/8/2023 là 4.550.000đ (bốn triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 51/CT - VKSCM, ngày 21 tháng 11 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn V về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173/BLHS.

Điều luật có nội dung:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

....” Tại phiên toà:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo V. Đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt chính: Căn cứ khoản 1, Điều 173; các điểm b, i, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 65/BLHS: xử phạt bị cáo V từ 07 (Bảy) tháng đến 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi. Giao bị cáo V cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện C, tỉnh B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

- Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo V.

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị không xem xét.

* Bị cáo V thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như viện kiểm sát đã truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng quy định.

[2] Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/8/2023 tại nhà vợ chồng anh Nguyễn Văn T1, chị Ma Thị T ở thôn T, xã Y, huyện C, tỉnh B, Nguyễn Văn V đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là: 01 (Một) chiếc cưa máy cầm tay (cưa lốc) nhãn hiệu STIHLMS 210 màu cam, lưỡi lam màu trắng trị giá: 4.550.000đ (bốn triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) của người bị hại là vợ chồng anh Nguyễn Văn T1, chị Ma Thị T. Ngay sau khi trộm cắp được tài sản V dùng xe mô tô BKS: 97B1 - xxxxx chở cưa lốc đến bán cho anh Hoàng Văn T2 với giá 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng), số tiền bán cưa lốc V tiêu dùng cá nhân hết. Hồi 23 giờ 05 phút, ngày 21/8/2023, anh Hoàng Văn T2 đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan công an 01 chiếc cưa lốc mà Hoàng Văn T2 đã mua với Nguyễn Văn V.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi liên quan và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Nguyễn Văn V về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, điều 173/BLHS là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự, tuy nhiên ngày 02/8/2001, Nguyễn Văn V bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng với thời hạn là 24 (hai mươi tư) tháng (Quyết định số 1317/QĐ - UB), đến nay được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi sự việc xảy ra, Nguyễn Văn V đã tự nguyện trả lại cho người có quyền lợi liên quan Hoàng Văn T2 số tiền 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng) là tiền V đã bán chiếc cưa lốc cho Hoàng Văn T2 nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “tự nguyện khắc phục hậu quả”; bị cáo có ông nội Nguyễn Văn Q, ông ngoại Ma Văn T4 được Nhà nước tặng nhiều Huân, huy chương; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo - theo quy định tại các điểm s, i, b, khoản 1, khoản 2, Điều 51/BLHS.

Bị cáo V tuy đã bị áp dụng biện pháp xử hành chính nhưng tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, lần đầu phạm tội, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng. Xét thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo và không cần thiết phải bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù, áp dụng điều 65/BLHS cho bị cáo V được hưởng án treo là đảm bảo sự công bằng và khoan hồng của pháp luật, cho bị cáo có cơ hội được sửa chữa mà vẫn đảm bảo răn đe, giáo dục, phòng ngừa.

[5] Trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, truy tố những người bị hại Nguyễn Văn T1 và Ma Thị T, người có quyền lợi liên quan Hoàng Văn T2 đều không yêu cầu bị cáo V bồi thường, vì Nguyễn Văn T1 + Ma Thị T đã được nhận lại tài sản bị mất, Nguyễn Văn V đã tự nguyện trả lại số tiền 2.200.000đ cho Hoàng Văn T2, những người bị hại, người có quyền lợi liên quan Hoàng Văn T2 đều vắng mặt tại phiên toà nhưng trong đơn xin xét xử vắng mặt những người bị hại, người có quyền lợi liên quan Hoàng Văn T2 vẫn giữ nguyên quan điểm là không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về quan điểm truy tố và đề nghị của Viện kiểm sát: là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Đối với anh Lương Văn B, chủ sở hữu xe mô tô BKS 97B1-xxxxx, anh Hoàng Văn T2 là người đã mua chiếc cưa lốc do Nguyễn Văn V trộm cắp mà có, tuy nhiên anh B không biết V dùng xe mô tô của mình để đi trộm cắp tài sản, anh Hoàng Văn T2 không biết chiếc cưa lốc do V trộm cắp mà có, nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với Lương Văn B và Hoàng Văn T2 là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra không thu giữ chiếc xe mô tô BKS 97B1 - xxxxx.

[8] Đối với vật chứng là: 01 cưa máy cầm tay (cưa lốc) nhãn hiệu STIHLMS 210 màu cam, lười lam màu trắng, máy cũ đã qua sử dụng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã trả lại vật chứng trên cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn T1, chị Ma Thị T - là đúng quy định.

[9] Tài liệu trong hồ sơ vụ án xác định bị cáo không có tài sản, thuộc hộ cận nghèo nên hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo V.

[10] Bị cáo V không có tài sản, thuộc hộ cận nghèo, có đơn xin miễn án phí nên HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo V theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn V phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

[2] Căn cứ vào khoản 1, Điều 173; các điểm b, s, i, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 65/BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Văn V: 07 (Bảy) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 14 (Mười bốn) tháng. Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Văn V cho Ủy ban nhân dân xã Y, huyện C, tỉnh B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp Nguyễn Văn V thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3, Điều 92 và Điều 68 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

[3] Án phí: Căn cứ các Điều 12, 15 - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn V.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

[4] Quyền kháng cáo: bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những người bị hại Nguyễn Văn T1, Ma Thị T; người có quyền lợi liên quan Hoàng Văn T2 vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2024/HS-ST

Số hiệu:14/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về