Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2021/TLST-HS, ngày 16 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HS ngày 01/9/2021 đối với bị cáo:

Lê Thái A, sinh ngày 24/02/2001, tại huyện MT, tỉnh Sóc Trăng; Tên gọi khác: Thái M. Nơi cư trú: ấp MB, xã MT, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: Lớp 7/12; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Minh Tr và bà Thạch Thị T; Anh, chị, em ruột: 02 người (bị cáo lớn nhất); Tiền án: có 01 tiền án, vào ngày 26/02/2020 bị Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản (đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/10/2020 nhưng chưa chấp hành xong tiền án phí); Tiền sự: Không có.

Bị khởi tố ngày 20/4/2021 và áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 20/4/2021 cho đến nay. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Bà Trần Thị B, sinh năm 1949 (Có yêu cầu xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: Ấp MB, xã MT, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng.

mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Trương Phước Kh, sinh năm 2004 (Vắng mặt).

* Người đại diện hợp pháp: Ông Trương Phước Đ, sinh năm 1972. (Vắng Cùng cư trú: Ấp MB, xã MT, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng.

- Người làm chứng: Bà Bùi Thị M, sinh năm 1956 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp MB, xã MT, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 04/01/2021 bị cáo Lê Thái A, cùng Trương Phước Kh, sinh năm 2004, ngụ cùng ấp MB, xã MT, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng, đang nhậu tại nhà của bị cáo đến khoảng 22 giờ cùng ngày hết mồi nhậu nên bị cáo nảy sinh ý định trộm trứng gà, trứng ngỗng về nhậu tiếp, bị cáo nói với Kh “Hết mồi rồi đi kiếm trứng gà, trứng ngỗng về nhậu tiếp” và Kh đồng ý. Kh nói với bị cáo thấy nhà bà cóc (Trần Thị B, sinh năm 1949 ngụ cùng ấp MB, xã MT, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng) có ổ gà đẻ cặp mé mương bên hông nhà, nói xong thì Kh rủ bị cáo đi, cả hai đi không sử dụng đèn, đi khoảng 250 mét thì tới nhà bà B. Bị cáo đứng ngoài lộ đal đợi Kh, Kh là người trực tiếp vào nhà lấy trộm một ổ gà mái trong đó có một số trứng gà và 01 (một) con gà mái. Sau khi bưng ổ gà ra lộ đal khoảng 10 (mười) mét thì Kh đưa cho bị cáo bưng và cả hai đi về nhà. Khi về đến nhà bị cáo thì Kh ôm con gà mái lên để bị cáo lấy trứng đi luộc (tổng số trứng là 08 quả trứng) còn con gà mái thì để lại trong ổ, bị cáo và Kh ăn xong mấy quả trứng thì đi ngủ, đến sáng hôm sau con gà mái nhảy ra ngoài kiếm ăn, bà nội của bị cáo là bà Bùi Thị M, sinh năm 1956, ngụ cùng ấp có nhìn thấy con gà mái, đến chiều cùng ngày bà Trần Thị B có đến nhà của bà M chơi và có kể lại sự việc mất trộm ổ gà nên bà M mới biết con gà mái bà nhìn thấy là của bà B nên ngày 06/01/2021 bà M đem con gà đi trả cho bà B, đến chiều cùng ngày bà B có đến nhà bà M nói về việc bị mất trộm ổ gà thì Kh nghe được nên đã chửi bà B, Kh chọi mấy chai bia vô nhà bà B và chặt phá đám tràm của bà B. Đến ngày 07/01/2021 bà Trần Thị B đến Công an xã trình báo sự việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 11/KLĐGTS.HĐ-ĐGTS ngày 16/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản thuộc UBND huyện Mỹ Tú kết luận:

- 01 (một) con gà mái màu vàng nâu, trọng lượng 1,180kg.

- 08 (tám) quả trứng gà.

Khảo sát giá thị trường ngày 05/01/2021 là: giá gà 80.000 đồng/kg, trứng gà 25.000 đồng/01 chục.

Tổng giá trị tài sản được định giá là: 114.400 đồng.

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKSMT ngày 09 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Lê Thái A về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa sơ thẩm: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38; Điều 50; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã khắc phục xong và phía bị hại không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về xử lý vật chứng: Không có nên đề nghị HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Trong lời nói sau cùng bị cáo trình bày xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên Tòa hôm nay, vắng mặt bị hại bà Trần Thị B, bà B có yêu cầu xét xử vắng mặt, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trương Phước Kh cùng người đại diện hợp pháp cho anh Kh là ông Trương Phước Đ, vắng mặt người làm chứng bà Bùi Thị M. Xét thấy, việc vắng mặt những người này không gây cản trở cho việc xét xử, cơ quan điều tra cũng đã tiến hành lấy lời khai của họ nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, xét xử vắng mặt bị hại Trần Thị B, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trương Phước Kh cùng người đại diện hợp pháp của anh Kh là ông Trương Phước Đ và người làm chứng bà Bùi Thị M.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công huyện Mỹ tú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Mỹ Tú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi lấy trộm tài sản gồm 08 quả trứng gà và 01 con gà mái màu vàng nâu của bà Trần Thị B như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát đã nêu. Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

[4] Tại bản Kết luận định giá tài sản số 11/KLĐGTS.HĐ-ĐGTS ngày 16/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản thuộc UBND huyện Mỹ Tú kết luận: Tổng giá trị tài sản bị cáo lấy trộm có giá là: 114.400 đồng.

[5] Hành vi lấy trộm tài sản của bị cáo xảy ra vào ngày 04/01/2021 mặc dù chưa đủ định lượng với tổng số tiền là 114.400 đồng nhưng trước đó bị cáo đã có 01 tiền án về hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục vi phạm, cụ thể vào ngày 26/02/2020 bị Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội trộm cắp tài sản (đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/10/2020 nhưng chưa chấp hành xong tiền án phí). Vì vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[6] Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có nhân thân xấu. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách hiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Xét thấy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn bất chấp thực hiện. Mặc dù, bị cáo biết tài sản của người khác bị cáo không có quyền sở hữu nhưng bị cáo đã lợi dụng lúc sơ hở trong quá trình quản lý, trong coi tài sản để lén lút lấy trộm tài sản của bị hại. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác mà pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, nên việc truy tố đưa bị cáo ra xét xử nghiêm trước pháp luật là cần thiết. Vì vậy, HĐXX thấy rằng, cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong thời gian hợp lý để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời để tuyên truyền, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[8] Về trách nhiệm Dân sự: Bị hại bà Trần Thị B đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Về vật chứng trong vụ án: Không có, nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[10] Đối với đối tượng Trương Phước Kh xét thấy hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính là phù hợp theo quy định của pháp luật

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của U ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[12] Lời đề nghị của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú về mức hình phạt, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng như đã nêu trong phần nội dung là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của U ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Lê Thái A (tên gọi khác Thái M) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Tuyên phạt bị cáo Lê Thái A 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện chấp hành án hoặc từ ngày bị bắt để chấp hành án.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về xử lý vật chứng: Không có nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

5/ Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Thái A phải chịu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

6/ Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2021/HS-ST

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về