Bản án về tội trộm cắp tài sản số 141/2020/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 141/2020/HSST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại hội trường xét xử -Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 139/2020/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 150/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Duy L, sinh ngày 14/02/2003 tại Xuân D, xã Kim L, huyện Sóc Sơn, Hà Nội; Nơi ĐKHHTT và chỗ ở hiện tại: Thôn Xuân D, xã Kim L, huyện Sóc Sơn, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Duy L và bà Nguyễn Thị Y; Vợ, con: chưa; Tiền án: không, Tiền sự: Ngày 11/8/2019, Công an phường Láng Thượng, quận Đống Đa ra Quyết định xử phạt hành chính số 09, bằng hình thức Cảnh cáo đối với Nguyễn Duy L về hành vi Trộm cắp tài sản. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Công H, sinh ngày 23/3/2004 tại Xuân D, xã Kim L, huyện Sóc Sơn, Hà Nội; Nơi ĐKHHTT và chỗ ở hiện tại: Thôn Xuân D, xã Kim L, huyện Sóc Sơn, Hà Nội; Nghề nghiệp: học sinh; Trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Công Nh và bà Nguyễn Thị Th; Vợ, con: chưa; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Anh Trần Văn L, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn Lai C, xã Xuân G, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội. Vắng mặt.

* Người đại diện hp pháp - bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy L: Ông Nguyễn Duy N, sinh 1948 (ông nội bị cáo Long); Nơi cư trú: Thôn Xuân D, xã Kim L, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Có mặt.

* Người đại diện hợp pháp - bào chữa cho bị cáo Nguyễn Công H: Ông Nguyễn Công Nh, sinh 1974 (bố đẻ bị cáo H); Nơi cư trú: Thôn Xuân D, xã Kim L, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 21/4/2020, Nguyễn Duy L mượn xe máy Dream của anh Nguyễn Công L, sinh năm 2000, ở cùng thôn để đi chơi thì gặp Nguyễn Công H cùng trú tại thôn Xuân D nên L rủ H đi trộm cắp xe máy về bán lấy tiền tiêu sài, H đồng ý. Khi đi, L chuẩn bị 01 bộ van phá khoá, H điều khiển xe máy Dream chở L ngồi sau. Cả hai đi từ thôn Xuân D lên xã Đông X, rồi đi qua xã Đức H sang thôn Lai C, xã Xuân G. Khi đi qua cánh đồng thôn Lai C, xã Xuân G, huyện Sóc Sơn, L thấy 01 xe máy Wave màu đỏ, dựng ở ven đường, đứng cách đầu xe máy Wave đỏ khoảng một mét có 01 cháu trai khoảng 08 tuổi. H và L đi xe máy qua vị trí để xe máy Wave đỏ thì L bảo H quay đầu xe máy lại, L đỗ cách vị trí xe máy Wave đỏ khoảng 04 mét. L xuống xe tiến lại vị trí xe Wave đỏ rồi sử dụng van phá khoá cắm vào ổ khoá điện và vặn phá khoá điện chiếc xe. L thấy cháu trai kia có gọi “Bố ơi, bố ơi” nhưng không nhìn thấy ai. Sau khi phá khoá xong, L quay đầu xe rồi nổ máy xe đi về hướng thôn Lai C, còn H đi xe máy Dream theo sau. về đến thôn Xuân D, L mang xe máy vừa trộm cắp được về nhà cất giấu, còn xe máy Dream L mang trả cho anh L. Khoảng 10 ngày sau, lo sợ bị phát hiện nên L mang chiếc xe máy Wave đỏ ra để tại đê thôn B, xã Đông X, còn biển số xe và van phá khoá L đã mang ném xuống sông Cà Lồ.

Ngày 28/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn phối hợp với Công an xã Đông X thu giữ chiếc xe máy Wave màu đỏ, không biển kiểm soát, số khung 212DY - 062304, số máy C12E - 5062448 để tại đê thôn B, xã Đông X, huyện Sóc Sơn, TP Hà Nội. Sau khi tiến hành cho anh Trần Văn L nhận diện chiếc xe, giám định số khung số máy còn nguyên thủy, kết quả xác minh xác định chính là chiếc xe máy anh Lợi bị trộm cắp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 62 ngày 10/8/2020, trả lại cho bị hại là anh Trần Văn L.

Tại kết luận định giá tài sản số 115/KL-HĐ ngày 29/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Sóc Sơn, kết luận: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave do Việt Nam sản xuất năm 2013, BKS 29N1-277.08, màu sơn đỏ đen bạc, số khung 212DY-062304, số máy C12E- 5062448, dung tích 97, đăng ký lần đầu ngày 15/10/2013, mua cũ lại ngày 29/02/2020 (xe đã thu hồi lại được), còn khoảng 92,7% giá trị so với mới có giá là: 13.700.000đ x 92,7% = 12.699.900 đồng.

Đối với 01 van phá khóa L chuẩn bị để sử dụng vào việc trộm cắp tài sản và 01 BKS tháo ra từ xe máy anh L, L đã ném xuống sông Cà Lồ nhưng không nhớ rõ vị trí ném nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Đối với 01 chiếc xe máy Dream, màu sơn nâu, BKS 88B1 - 263.81, L mượn của anh Nguyễn Công L để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Sau khi trộm cắp tài sản, L đã trả lại xe cho anh L. Qua xác minh, anh L không biết L mượn xe để đi trộm cắp tài sản. Mặt khác, anh L đã bán chiếc xe trên cho một người không quen biết nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để thu giữ chiếc xe.

Cáo trạng số 131/CT/VKS ngày 20/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố các bị cáo Nguyễn Duy L và Nguyễn Công H về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại là anh Trần Văn L có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, lời khai trong quá trình điều tra trình bày: Khoảng 14 giờ 40 ngày 21/4/2020, anh điều khiển xe máy Honda Wave màu đỏ, BKS 29N1 - 277.08 cùng con trai là Trần Văn Q đến cánh đồng Vải thuộc thôn Lai C, xã Xuân G, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội để đánh cá. Anh L để xe máy tại đường đất bờ ruộng giáp đường Quốc lộ 3B, cháu Q ngồi trông giữ, anh L xuống ruộng đi đánh cá khoảng 100m thì nghe thấy tiếng hô của cháu Q. Anh L nhìn lên thấy hai thanh niên lấy xe của anh đi mất, anh đuổi theo nhưng không kịp, sau đó anh đã trình báo cơ quan công an. Nay anh đã nhận lại được tài sản nên anh không yêu cầu gì về dân sự.

Người đại diện hợp pháp bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy L là ông Nguyễn Duy N trình bày: Sự việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, gia đình không biết. Sau khi bị cáo trộm cắp chiếc xe, L có cất giấu xe ở nhà. Nhưng do bố mẹ L thường xuyên đi làm sớm, về muộn nên không biết việc L cất giấu xe, còn ông không sống cùng nhà nên cũng không biết sự việc xảy ra. Do L chưa nhận thức đầy đủ về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người đại diện hợp pháp bào chữa cho bị cáo Nguyễn Công H là ông Nguyễn Công Nh trình bày: Bị cáo H đang là học sinh trường trung học phổ thông, thời điểm xảy ra hành vi phạm tội do dịch bệnh Covid nên H được nghỉ học, bị bạn bè lôi kéo nên đã phạm tội. Ông đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã giữ nguyên quan điểm nhu cáo trạng đã truy tố các bị cáo và đề nghị HĐXX:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91 Bộ luật hình sự.

Xử phạt:

- Nguyễn Duy L mức án từ 15 đến 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 36 tháng.

- Nguyễn Công H mức án từ 12 đến 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: không đặt ra giải quyết;

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được hanh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định t tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 21/4/2020, tại cánh đồng thôn Lai C, xã Xuân G, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Nguyễn Duy L và Nguyễn Công H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, BKS 29N1 - 277.08 là tài sản của anh Trần Văn L có trị giá 12.699.900 đồng (mười hai triệu sáu trăm chín mươi chín nghìn chín trăm đồng). Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm cho tình hình trị an nơi xảy ra tội phạm diễn biến phức tạp. Hành vi trên của các bị cáo đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò và nhân thân các bị cáo: Xét thấy, đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn. Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Duy L là người rủ rê bị cáo H, là người chuẩn bị công cụ phạm tội, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội và cất giấu tài sản trộm cắp, nên giữ vai trò đầu vụ. Bị cáo H là người giúp sức cho bị cáo L nên giữ vai trò sau. Xét thấy, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; người bị hại đã nhận lại tài sản, không có ý kiến gì về dân sự; bị cáo H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đó là những tình tiết được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 BLHS. Các bị cáo được áp dụng Điều 91, Điều 98 Bộ luật hình sự quy định về xử lý hình sự đối với người phạm tội dưới 18 tuổi.

Về nhân thân các bị cáo: bị cáo L đã có một tiền sự: Ngày 11/8/2019, Công an phường Láng Th, quận Đống Đa ra Quyết định xử phạt hành chính số 09, bằng hình thức Cảnh cáo đối với Nguyễn Duy L về hành vi Trộm cắp tài sản, tiền sự này chưa được xóa. Xét thấy bị cáo có tiền sự cùng hành vi, chưa được xóa lại tiếp tục phạm tội, nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống bình thường của xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa. Đối với bị cáo H, xét tính chất và hành vi phạm tội đơn giản, bị cáo đang là học sinh nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về khu trừ thu nhập: Do bị cáo H khi phạm tội chưa 18 tuổi, căn cứ khoản 2 Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự không khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 chiếc xe máy Wave màu đỏ, không biển kiểm soát, số khung 212DY - 062304, số máy C12E - 5062448 là tài sản bị chiếm đoạt, đây là tài sản của anh Trần Công L. Ngày 10/8/2020 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn đã trả lại cho anh Trần Văn L, anh L không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[6] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 173 Bộ Luật hình sự quy định về hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, các bị cáo khi phạm tội dưới 18 tuổi, căn cứ vào Điều 91 Bộ luật hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 91 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Duy L 6 (sáu) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 100 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Công H 9 tháng cải tạo không giam giữ về tội Trộm cắp tài sản. Thời gian cải tạo tính từ ngày UBND xã Kim L nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao các bị cáo H cho UBND xã Kim L, huyện Sóc Sou, TP Hà Nội giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

2. Về án phí, quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 135, Điều 333, 337 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm Các bị cáo, người đại diện hợp pháp bào chữa cho các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Văn L, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 141/2020/HSST

Số hiệu:141/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về