TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 140/2022/HS-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 9 năm 2022 tại điểm cầu trung tâm Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 144/2022/TLST- HS ngày 09 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2022/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:
* Tại điểm cầu thành phần:
Quàng Trọng Đ, sinh năm 1995; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;
Nơi cư trú: Bản C, xã T, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
Trình độ học vấn: 11/12; Con ông: Quàng Văn P; Con bà: Sòi Thị X; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ: Lò Thị Thơm; Bị cáo có 01 con sinh năm 2021; Tiền án: Tại Bản án số 88/2019/HSST ngày 16/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 23/4/2019, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/6/2020, chấp hành xong 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm ngày 16/7/2019; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2022 đến nay; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).
*Tại điểm cầu trung tâm:
- Bị hại: Anh Thân Đức M, sinh năm 1992 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
- Người làm chứng: Anh Đỗ Mạnh D, sinh năm 1982 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ dân phố M, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Quàng Trọng Đ mới xuống huyện Việt Yên để tìm việc làm. Khoảng 14 giờ ngày 27/5/2022, Đ đi bộ một mình đến quán bi-a “Bin Billiard 93” ở khu đất trống thuộc tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang phát hiện thấy có 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO 133H, màu sơn đỏ- đen (xe không có biển kiểm soát) của anh Thân Đức M dựng ở phía ngoài cửa quán bi-a, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện nên Đ đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên đem bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Quan sát thấy trong quán bi- a có người, Đ đã đi lòng vòng xung quanh để chờ khi nào không có người lợi dụng sơ hở để thực hiện hành vi trộm cắp. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày 27/5/2022, quan sát thấy trong quán bi-a vắng người, không có người trông coi nên Đ đã đi đến vị trí để xe điện của anh M để trộm cắp xe. Sau đó, Đ ngồi lên xe, mở khóa điện và quay đầu để điều khiển xe đi cùng lúc này bị anh M đi ra đến cửa quán phát hiện truy đuổi. Thấy bị phát hiện, Đ để xe lại và bỏ chạy được khoảng 100m thì bị người dân bắt giữ sau đó trình báo Công an thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO màu đỏ-đen, xe cũ đã qua sử dụng, số khung RPEYDDGPEFA406926, không có biển kiểm soát.
Cùng ngày 27/5/2022, anh Thân Đức M đã làm đơn trình báo Công an thị trấn Nếnh về việc bị trộm cắp xe máy điện. Ngày 27/5/2022, Công an thị trấn Nếnh đã bàn giao hồ sơ, vật chứng và đối tượng Quàng Trọng Đ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Việt Yên để điều tra theo thẩm quyền.
Ngày 30/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Việt Yên đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên định giá xác định giá trị chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO, số loại 133H, màu đỏ-đen. Tại Kết luận định giá tài sản số 57/KL-HĐĐGTS ngày 30/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên kết luận: 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO, số loại 133H, màu đỏ-đen có giá trị 4.000.000 đồng.
Ngày 28/5/2022, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường nơi Quàng Trọng Đ thực hiện hành vi trộm cắp ngày 27/5/2022. Kết quả, bị hại xác định vị trí để xe máy điện sau đó bị trộm cắp phù hợp với lời khai của bị cáo, người làm chứng và các tài liệu khác.
Ngày 28/5/2022, Cơ quan điều tra đã trích xuất, dữ liệu camera an ninh tại quán bi-a của anh Thân Đức M thu giữ 03 đoạn video clip ghi lại hình ảnh Quàng Trọng Đ trộm cắp tài sản và được lưu trữ vào đĩa CD để phục vụ điều tra. Ngày 24/6/2022, Cơ quan điều tra tiến hành cho bị cáo Quàng Trọng Đ xem xác nhận lại nội dung, hình ảnh camera đã được trích xuất từ camera an ninh tại quán bi-a của anh Thân Đức M; kết quả bị cáo Đ xác nhận người thanh niên mặc quần áo đen, đội mũ lưỡi trai đen thực hiện hành vi trộm cắp xe điện tại quán bi-a của anh Thân Đức M chính là bị cáo Đ, được in ra giấy A4 cho Quàng Trọng Đ ký xác nhận.
Tại Bản cáo trạng số 144/CT-VKS ngày 28/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo Quàng Trọng Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, Đ diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Quàng Trọng Đ và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Quàng Trọng Đ từ 08 tháng tù đến 10 tháng tù tội “Trộm cắp tài sản”.Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 27/5/2022.
Về án phí đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại cơ quan điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Đ thành khẩn khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của Đ diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Việt Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa bị hại; Người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, tại giai đoạn điều tra và truy tố đã có lời khai nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292;
Điều 293; Điều 305 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Đ tại phiên tòa hôm nay phù hợp với diễn biến hành vi phạm tội, lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Việt Yên và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 27/5/2022, tại trước cửa quán bi-a “Bin Billiard 93” ở khu đất trống thuộc tổ dân phố My Điền 2, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; bị cáo Quàng Trọng Đ đang thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe máy điện nhãn hiệu ESPERO, số loại 133H, màu đỏ- đen, có trị giá 4.000.0000 đồng của anh Thân Đức M thì bị bắt quả tang. Bị cáo Đ chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản nên với hành vi nêu trên của bị cáo Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã có hành vi lén lút để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của bị hại, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, vụ án cần phải được xử lý nghiêm tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.
[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo Đ đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định.
[6] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:
Bị cáo Đ năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điển h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích trên, đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo với xã hội trong một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định phạt bổ sung bằng tiền, tuy nhiên xét thấy bị cáo Đ không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đ.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Anh Thân Đức M đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường dân sự. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[9] Về vật chứng của vụ án: Ngày 06/6/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Thân Đức M chiếc xe máy điện nhãn hiệu ESPERO, số loại 133H, màu đỏ-đen. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[10] Về án phí: Bị cáo Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Bị hại có quyền kháng cáo theo Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về trách nhiệm hình sự:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Quàng Trọng Đ 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 27/5/2022.
[2] Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;
Buộc các bị cáo Quàng Trọng Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[3] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 140/2022/HS-ST
Số hiệu: | 140/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về