Bản án về tội trộm cắp tài sản số 138/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 138/2022/HS-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 05 năm 2022 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 104/2022/HSST ngày 19 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 05 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Bá R, sinh năm 1984 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh; con ông Lê Bá P, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1961; có 01 chị sinh năm 1982; có vợ tên Vương Thị H, sinh năm 1988, có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 25/01/2019, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 270/2019/QĐ-TA thời hạn 15 tháng, chấp hành xong ngày 01/7/2020; nhân thân:

- Ngày 26/7/2013, Công an phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

- Ngày 09/5/2016, Công an phường 14, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

- Ngày 27/6/2017, bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo bản án số 127/2017/HSST chấp hành xong ngày 17/01/2018.

Bị bắt tạm giam từ ngày 05/01/2022, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Bà Lê Thị C, sinh năm 1981; thường trú tại: Thôn Ố, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: Khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Lê Đức A; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 05/01/2022, Lê Bá R đi bộ qua địa chỉ số 20/19 đường N, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương thì R nhìn thấy trước phòng trọ của chị Lê Thị C, dựng 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Lead màu trắng, biển số 61D1-xx cắm sẵn chìa khóa xe và không có người trông coi, R lén lút đi vào ngồi lên xe, mở khóa và lùi xe ra sau khoảng 2 mét để tẩu thoát thì chị C phát hiện truy hô, R bỏ chạy; bị chị C cùng anh Lê Đức A và lực lượng Công an phường D tuần tra đến bắt Lê Bá R cùng vật chứng đưa về Công an phường lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- 01(một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu trắng, biển số 61D1-xx, số máy F0799670, số khung 240XBY203488 Bản kết luận định giá tài sản số 03/KLĐGTS ngày 17/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên thành phố D, kết luận: xe mô tô hiệu Honda Lead màu trắng, biển số 61D1-xx, số máy F0799670, số khung 240XBY203488 trị giá là 6.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: 01(một) xe mô tô hiệu Honda Lead màu trắng, biển số 61D1-xx, số máy F0799670, số khung 240XBY203488 chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị C nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D trả lại cho chị Nguyễn Thị C.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị C nhận lại xe nên không yêu cầu bồi thường.

Tại cáo trạng số 133/CT–VKS ngày 18 tháng 04 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Bá R về Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Bá R mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

Trước khi hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại cơ quan điều tra, người tham gia tố tụng không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Khoảng 20 giờ ngày 05/01/2022, tại địa chỉ đường N, khu phố T, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Lê Bá R thực hiện hành vi lén lút, chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda Lead màu trắng, biển số 61D1-xx, số máy F0799670, số khung 240XBY203488 trị giá 6.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị C. Hành vi của bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 133/CT–VKS ngày 18 tháng 04 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương.

Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và chưa gây thiệt hại là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự và từng bị phạt hành chính nhiều lần về hành vi trộm cắp tài sản và Tòa án xét xử về tội trộm cắp.

[7] Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: Tài sản thu hồi trả lại cho bị hại và không yêu cầu bồi thường gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

[8] Mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với tính chất mức độ và nhân thân của bị cáo, nên Hội đồng xét xử quyết định mức hình phạt trong mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Bá R phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Bá R 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2022.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Lê Bá R phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

831
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 138/2022/HS-ST

Số hiệu:138/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về