Bản án về tội trộm cắp tài sản số 136/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 136/2023/HS-PT NGÀY 24/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 24/8/2023 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 212/2023/HSPT ngày 11/7/2023 đối với bị cáo Vũ Ngọc S, Đỗ Hoàng T do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 02/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Vũ Ngọc S, sinh năm 2003; Tên gọi khác: Không. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Tây Bắc, xã Kha S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con bà Nguyễn Thị H (không xác định được họ tên bố); Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/12/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (Có mặt)

2. Đỗ Hoàng T, sinh năm 2003; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Vầu, xã Tân Hòa, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đỗ Văn H và bà Mẫn Thị L; Có vợ là Nguyễn Thị Ngọc O, sinh năm 2003 và có 1 con sinh năm 2023; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không;

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa. (có mặt).

* Người tham gia tố tụng khác: Ngoài ra vụ án còn có 2 bị cáo, 8 bị hại, 04 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10/2022, Vũ Đình H gặp Vũ Ngọc S tại một đám cỗ ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. H và S trao đổi với nhau về việc H sẽ đi trộm cắp xe mô tô mang về bán cho S , S đồng ý mua các xe mô tô H trộm cắp được rồi tìm chỗ tiêu thụ để bán kiếm lời. Sau đó, H rủ Lê Văn H cùng đi trộm cắp xe mô tô. Trong khoảng thời gian từ ngày 17/10/2022 đến ngày 29/11/2022, H và H đã cùng nhau thực hiện 08 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Yên Thế, huyện Tân Yên và huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang về bán cho S và Đỗ Hoàng T, sinh năm 2003 ở xóm Vầu, xã Tân Hòa, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 12 giờ ngày 17/10/2022, H và H gặp nhau tại thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Tại đây, H rủ H đi trộm cắp xe mô tô để bán lấy tiền chia nhau, H đồng ý rồi điều khiển xe mô tô Wave màu S đỏ của H (không nhớ biển kiểm soát) chở H đến huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang để trộm cắp tài sản. Khi đi qua nhà anh Phùng Văn T ở tổ dân phố Hoàng Hoa Thám, thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, H và H phát hiện chiếc xe mô tô Honda Wave màu S đen, biển kiểm soát 98C1- X (xe xủa anh Bùi Văn B) để ở trước cửa nhà anh T, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện. H dừng xe mô tô để H xuống xe đi vào trộm cắp, còn H điều khiển xe mô tô đến rìa đường trước cửa trụ sở Chi nhánh Điện lực huyện Yên Thế đỗ ở đó để cảnh giới cho H. H đi đến sát vị trí chiếc xe mô tô của anh Biên, mở chìa khóa điện nổ máy và điều khiển xe mô tô bỏ chạy. H điều khiển xe mô tô đi phía sau H cùng đi về huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Khi về thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, H và H dùng cờ lê để sẵn trong cốp xe của H tháo biển kiểm soát của xe mô tô trộm cắp được vứt đi. Sau đó, H và H mang chiếc xe mô tô trộm cắp được đến nhà Vũ Ngọc S bán cho S được 5.000.000 đồng, số tiền này H và H chia đôi và đã ăn tiêu hết.

Sau khi mua được xe, S mang bán cho Đỗ Hoàng T được số tiền 5.800.000 đồng. S chỉ nói cho T biết chiếc xe này S mua trên mạng và không có giấy tờ nên T không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có. Sau đó, T đã bán chiếc xe mô tô này cho một người không quen biết qua mạng xã hội được 6.800.000 đồng.

Anh Biên sau khi bị trộm cắp chiếc xe mô tô không làm đơn trình báo. Ngày 10/12/2022, anh Biên mới làm đơn trình báo đến Công an thị trấn Phồn Xương để Công an thị trấn Phồn Xương báo cáo sự việc trên đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế.

Tại Kết luận định giá tài sản số 88/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thế kết luận: Giá trị chiếc xe mô tô Honda Wave, màu S đen, biển kiểm soát 98C1 - X là 12.000.000đồng Quá trình điều tra, H, H khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp xe mô tô của anh Biên. Tiến hành thực nghiệm điều tra, H và H thực hiện thuần thục các động tác.

S không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp nhưng hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ tài sản do H trộm cắp được nên đồng phạm với H và H.

Chiếc xe mô tô Honda Wave, màu S đen, biển kiểm soát 98C1 - X, T đã bán cho người không quen biết, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thấy.

Đối với chiếc xe mô tô Wave mà H và H dùng làm phương tiện đi trộm cắp là xe mô tô của H, H không nhớ biển kiểm soát của xe, H khai sau đó đã bán chiếc xe mô tô đó cho người không quen biết với giá 3.000.000 đồng nên không có căn cứ để truy tìm.

Sau khi tháo biển kiểm soát xe mô tô trộm cắp được thì H và H đã vứt chiếc cờ lê và biển kiểm soát đó nhưng không nhớ vị trí nào nên không có căn cứ để truy tìm.

Khi T mua xe của S , T không biết đó là xe trộm cắp mà có nên không xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Biên yêu cầu bồi thường số tiền 12.000.000 đồng. H, H, S chưa bồi thường.

Vụ thứ hai: Khoảng 10 giờ ngày 27/10/2022, H điều khiển xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X của ông Vũ H Luyện (bố của H) đến chợ Úc S , thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và gặp H. H rủ H cùng nhau đi trộm cắp xe mô tô, H đồng ý. Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20P1 - X chở H đi đến khu vực thôn Nguộn B, xã Cao Xá, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. Tại đây, H và H phát hiện chiếc xe mô tô Honda Wave, màu S xanh, biển kiểm soát 98H1 - X (xe của anh Nguyễn Đức Toàn, sinh năm 1983 ở thôn Vàng, xã Cao Xá, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) dựng trên vỉa hè trước cổng của một nhà dân, xe vẫn cắm chìa khóa điện. Thấy vậy, H dừng xe lại để cho H xuống xe đi đến trộm cắp chiếc xe mô tô của anh Toàn, còn H điều khiển xe mô tô đi vòng quanh để cảnh giới. H tiến lại gần xe mô tô của anh Toàn, dắt xe xuống lòng đường rồi mở khóa xe, nổ máy đi về thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Tại đây, H mở cốp xe mô tô trộm cắp được ra kiểm tra thì thấy trong cốp xe có 01 căn cước công dân, 01 đăng ký xe mô tô, biển số đăng ký 98H1 - X và số tiền 340.000 đồng. H lấy số tiền trên và 01 đăng ký xe mô tô đút vào túi, còn căn cước công dân H vứt đi. Sau đó, H điều khiển xe Future X, biển kiểm soát 20P1 - X đến sau và gọi điện thoại cho S để bán chiếc xe mô tô kèm theo đăng ký xe trộm cắp cho S được 9.000.000 đồng, H và H đã chia đôi số tiền này và ăn tiêu hết. Còn số tiền 340.000 đồng H chi tiêu một mình, không chia cho H.

S tiếp tục mang xe mô tô trên (kèm theo đăng ký xe) bán cho T được 10.800.000 đồng. Số tiền được hưởng lợi S đã ăn tiêu hết.

Khi mua xe mô tô của S , vì xe có giấy đăng ký xe nên T không hỏi gì về nguồn gốc của xe. Sau đó, T bán chiếc xe mô tô trên cho anh Quản Khánh Tùng, sinh năm 1989 ở tổ dân phố Sậm, thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang được số tiền 11.200.000 đồng. Quá trình điều tra, T đã liên hệ với anh T để chuộc lại chiếc xe mô tô và đăng ký xe với số tiền 11.200.000 đồng để giao nộp cho Cơ quan điều tra ngày 03/12/2022.

Anh Toàn sau khi phát hiện bị mất trộm xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 98H1 - X trong cốp xe có 01 đăng ký xe mô, 01 căn cước công dân và số tiền 340.000 đồng không trình báo, đến ngày 19/12/2022, anh Toàn đã trình báo sự việc trên đến Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 71/KL-ĐGTS ngày 26/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: Xe mô tô Honda Wave, màu S xanh đen bạc, biển kiểm soát 98H1 - X có giá 12.000.000đồng Tại Kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐGTS ngày 15/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thế kết luận: Chi phí cấp lại một căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức Toàn là 70.000 đồng.

Quá trình điều tra, H, H khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp xe mô tô của anh Toàn. Tiến hành thực nghiệm điều tra, H và H thực hiện thuần thục các động tác. S không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp nhưng hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ tài sản do H trộm cắp được nên đồng phạm với H và H.

Xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 98H1 - X và đăng ký xe mô tô là của anh Toàn. Ngày 02/3/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho Toàn.

Cơ quan điều tra đã truy tìm căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức Toàn, đến nay chưa tìm thấy. Đối với đoạn băng dính đen mà H và H đã dùng để dán thay đổi số của biển kiểm soát xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X, sau khi trộm cắp được xe mô tô của anh Toàn, H đã tháo băng dính ra vứt đi, không xác định được đã vứt ở đâu nên không có căn cứ để truy tìm.

Đối với T mua xe của S , anh T mua xe của Tuấn: Do T và anh T đều không biết đó là xe trộm cắp mà có nên không xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Toàn không yêu cầu bồi thường chi phí cấp lại căn cước công dân, T yêu cầu H, H và S mỗi người trả lại cho T 3.050.000 đồng (là số tiền T bỏ ra chuộc xe của anh T).

Vụ thứ ba: Khoảng hơn 12 giờ ngày 09/11/2022, H điều khiển xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X đến gặp H tại thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và tiếp tục rủ H đi trộm cắp xe mô tô, H đồng ý. Sau đó, H điều khiển xe mô tô trên chở H đi qua nhà anh Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1982 ở tổ dân phố Thống Nhất, thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang thì H và H phát hiện một xe mô tô YAMAHA Exciter 150 màu S đen, biển kiểm soát 98F1 - X (xe của anh C dựng trên vỉa hè phía trước cửa nhà, vẫn cắm chìa khóa điện). Thấy vậy, H dừng xe để H xuống để đi vào trộm cắp xe mô tô, còn H điều khiển xe mô tô quay lại ở khu vực gần đó để cảnh giới cho H. H đi đến xe mô tô của anh C, mở khóa rồi điều khiển xe mô tô trộm cắp đi trước, H điều khiển xe mô tô đi phía sau. Khi về đến thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, H và H đã dùng cờ lê để sẵn trong cốp xe của H tháo biển kiểm soát của xe mô tô vừa trộm cắp được vứt biển kiểm soát cùng cờ lê đi. Sau đó, H gọi điện thoại cho S để bán xe mô tô trộm cắp được thì S đồng ý hẹn gặp H và H tại đoạn đường thuộc thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. S gọi điện thoại rủ T cùng đến mua xe cho H và H với giá 6.000.000 đồng. T hỏi H về nguồn gốc xe thì H trả lời “Lấy ở Lạng Giang” nên T hiểu là xe trộm cắp được ở huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang nhưng vẫn đồng ý mua để bán kiếm lời. Số tiền bán xe mô tô trộm cắp thì H và H đã chia đôi và ăn tiêu hết. Sau khi mua chiếc xe mô tô của H và H thì T đã bán chiếc xe mô tô cho một người không quen biết trên qua mạng xã hội Facebook được số tiền 7.700.000 đồng. S và T chia đôi số tiền được hưởng lợi từ việc bán chiếc xe mô tô trên và đã ăn tiêu hết.

Anh C sau khi phát hiện bị mất xe mô tô không làm đơn trình báo, đến ngày 12/12/2022, anh C đã làm đơn trình báo sự việc trên đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 88/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thế kết luận: Giá trị chiếc xe mô tô Yamaha Exciter 150, màu S đen, biển kiểm soát 98F1 - X là 17.000.000 đồng.

Chiếc xe mô tô YAMAHA Exciter, biển kiểm soát 98F1 - X là của anh C mua lại của người không quen biết. Cơ quan điều tra đã ra Thông báo truy tìm đối với chiếc xe mô tô YAMAHA Exciter, biển kiểm soát 98F1 - X, đến nay chưa tìm thấy.

Đối với băng dính đen mà H và H đã dùng để dán thay đổi số biển kiểm soát 20P1 - X, chiếc cờ lê mà H và H đã sử dụng để tháo biển kiểm soát của xe mô tô trộm cắp được, H và H đã vứt băng dính, chiếc cờ lê cùng biển kiểm soát 98F1 - X nhưng không xác định được đã vứt tại vị trí nào nên không có căn cứ để truy tìm.

Về trách nhiệm dân sự: Anh C yêu cầu các bị cáo phải bồi thường 17.000.000 đồng, các bị cáo chưa bồi thường.

Vụ thứ tư: Khoảng hơn 10 giờ ngày 15/11/2022, H tiếp tục điều khiển xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X chở H đi trộm cắp tài sản. Khi đi đến tổ dân phố Hòa Bình, thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, H và H phát hiện chiếc xe mô tô Wave màu S xanh, biển kiểm soát 98C1 - X (xe của anh Hà Văn Hòa, sinh năm 1975 ở thôn Trại Chuối 1, xã Đồng Kỳ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang) để trên vỉa hè, chìa khóa điện vẫn để ở móc treo đồ của xe. Thấy vậy, H xuống xe đi bộ đến gần chiếc xe mô tô của anh H, H điều khiển xe mô tô đến trước cửa hàng Điện máy xanh thuộc thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang cảnh giới cho H. H đi đến lấy chìa khóa ở móc treo đồ mở khóa rồi ngồi lên điều khiển xe bỏ chạy. H điều khiển xe mô tô Future X đi phía sau H. Khi về đến huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, H mở cốp xe mô tô trộm cắp được ra kiểm tra thấy trong cốp xe có 01 đăng ký xe mô tô và 01 giấy phép lái xe mô tô hạng Al. H cất 01 đăng ký xe mô tô và không nói cho H biết là xe có giấy tờ, còn 01 giấy phép lái xe H vứt đi. Sau đó, H gọi điện thoại cho S để bán chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được của anh H cho S và T được số tiền là 6.000.000 đồng. Số tiền này H và H chia đôi và ăn tiêu hết. Sau khi bán xe, H một mình mang đăng ký xe trộm cắp được đến đưa cho S lấy thêm 2.000.000 đồng. Số tiền này, H không đưa cho H và đã ăn tiêu hết. Sau khi mua chiếc xe mô tô trên cùng đăng ký xe, T đã bán cho một người tên Tùng (không biết tên tuổi địa chỉ) được số tiền 11.400.000 đồng, số tiền được hưởng lợi từ việc bán chiếc xe mô tô S và T đã chia đôi và ăn tiêu hết.

Anh H sau khi phát hiện bị mất xe không trình báo ngay sự việc, đến ngày 12/12/2022, anh H đã làm đơn trình báo sự việc trên đến Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thế.

Tại Kết luận định giá tài sản số 88/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thế kết luận: Giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu S xanh, biển kiểm soát 98C1 - X là 10.000.000 đồng, chi phí cấp lại một đăng ký xe mô tô 98C1 - X là 130.000 đồng, chi phí cấp lại một giấy phép lái xe hạng A1 là 235.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã ra Thông báo truy tìm đối với chiếc xe mô tô Wave, biển kiểm soát 98C1 - X và 01 đăng ký xe mô tô, 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Hà Văn Hòa, đến nay chưa tìm thấy. Đối với đoạn băng dính đen mà H và H đã dùng để dán thay đổi số biển kiểm soát 20P1 - X, sau khi trộm cắp xe mô tô của anh H xong, H đã tháo băng dính ra vứt đi (không xác định vị trí nào) nên không có căn cứ để truy tìm.

Về trách nhiệm dân sự: Anh H yêu cầu các bị can bồi thường số tiền 15.000.000 đồng giá trị chiếc xe mô tô và 365.000 đồng chi phí cấp lại các giấy tờ, các bị can chưa bồi thường.

Vụ thứ năm: Trưa ngày 16/11/2022, H gọi điện thoại rủ H đi trộm cắp xe mô tô, H đồng ý. H điều khiển xe mô tô Honda Future X, biển kiểm soát 20P1 - X đến chợ Úc S thuộc thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đón H. Sau đó, H điều khiển xe mô tô trên chở H qua nhà anh Nguyễn Mạnh Hà, sinh năm 1975 ở tổ dân phố Lao Động, thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. H phát hiện 01 xe mô tô Honda Wave, màu S đen, biển kiểm soát 98H1 - X của anh Hà dựng trước cửa nhà, chìa khóa vẫn cắm tại ổ khóa điện. Thấy vậy, H dừng xe mô tô cho H xuống xe để vào trộm cắp xe mô tô, còn H điều khiển xe mô tô đi lòng vòng để cảnh giới cho H. H tiến lại gần chiếc xe mô tô của anh Hà dùng tay mở chìa khóa điện của xe rồi ngồi lên xe điều khiển xe mô tô trộm cắp đi trước, H điều khiển xe mô tô Future X đi phía sau cùng nhau về thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Khi về đến thị trấn Hương S , H dừng xe lại, kiểm tra trong cốp xe mô tô trộm cắp được có một đăng ký xe mô tô, một căn cước công dân, một giấy phép lái xe hạng A1, H giữ lại đăng ký xe mô tô còn giấy phép lái xe và căn cước công dân H đã vứt đi (không xác định đã vứt ở vị trí nào). Sau đó, H đã gọi điện thoại cho S và đã bán chiếc xe mô tô cho S và T với giá 6.000.000 đồng. Số tiền này, H và H chia đôi và đã ăn tiêu hết. Sau đó T đã bán chiếc xe này cho một người không quen biết trên mạng xã hội Facebook (không nhớ tài khoản Facebook của người này) được 10.700.000 đồng. Số tiền hưởng lợi từ việc bán xe T và S chia đôi rồi ăn tiêu hết.

Anh Hà sau khi phát hiện bị mất xe không trình báo, đến ngày 19/12/2022, anh Hà đã trình báo sự việc trên đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Yên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 71/KL-ĐGTS ngày 26/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: Giá trị chiếc xe mô tô Honda Wave 110 màu đen bạc, biển kiểm soát 98H1 - X là 13.000.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 05/KL-HĐĐGTS ngày 15/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thế kết luận: Chi phí cấp lại thẻ căn cước công dân, đăng ký xe mô tô và giấy phép lái xe hạng A1 là 335.000 đồng.

Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Thế đã ra Thông báo truy tìm đối với chiếc xe mô tô Wave, biển kiểm soát 98H1 - X , một đăng ký xe mô tô, một căn cước công dân, một giấy phép lái xe hạng A1 đều mang tên Nguyễn Mạnh Hà, đến nay chưa tìm thấy.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Hà yêu cầu bồi thường giá trị xe bị trộm cắp là 15.000.000 đồng. Đối với các giấy tờ bị mất anh Hà không yêu cầu bồi thường. Các bị cáo chỉ đồng ý bồi thường theo Kết luận định giá tài sản. Đến nay các bị cáo chưa bồi thường.

Vụ thứ sáu: Khoảng hơn 13 giờ ngày 24/11/2022, H gọi điện thoại cho H rủ đi trộm cắp xe mô tô, H đồng ý. H điều khiển xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X đến thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đón H. Sau đó, H điều khiển xe mô tô trên chở H đến cửa quán lẩu 186 thuộc Khu đô thị An Huy thuộc tổ dân phố Đồi Đỏ, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang. H và H phát hiện trước cửa quán dựng 01 chiếc xe mô tô Honda Air Blade, màu đen, biển kiểm soát 60B1-X (xe của anh Nguyễn Văn Toàn, sinh năm 1989 ở tổ dân phố Nguộn, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang) không có người trông coi, chìa khóa điện vẫn cắm ở ổ khóa điện. Thấy vậy, H dừng xe cho H xuống xe để vào trộm cắp xe mô tô của anh Toàn, còn H điều khiển xe mô tô Future X đi vòng quanh để cảnh giới cho H. H đi đến vị trí xe mô tô của anh Toàn, dùng tay mở khóa rồi ngồi lên điều khiển đi trước, H điều khiển xe mô tô Future X theo sau. Khi đến thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, H dừng xe lại, kiểm tra trong cốp xe thấy có 01 giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe (H không nhớ có mấy giấy phép lái xe), 01 căn cước công dân và số tiền 560.000 đồng. H lấy số tiền đó và đăng ký xe mô tô đút vào trong người, còn giấy phép lái xe, căn cước công dân H vứt đi (không nhớ đã vứt tại vị trí nào). Sau đó, H đi phía sau đến chỗ H, H gọi điện thoại cho S rồi bán chiếc xe mô tô trộm cắp được kèm theo 01 giấy đăng ký xe cho S và T được 7.000.000 đồng, số tiền này H và H đã chia đôi và ăn tiêu hết. Số tiền 560.000 đồng, H đã tiêu 506.000 đồng, còn 54.000 đồng bị thu giữ trong vụ thứ tám.

Sau khi mua xe, T đã bán chiếc xe mô tô này cho một người không quen biết địa trên mạng xã hội có Nick Facebook là "Sáng lái xe" được số tiền 7.500.000đồng, số tiền này T giữ lại chưa chia cho S . Đến ngày 03/12/2022, T đã đi chuộc lại chiếc xe mô tô kèm theo đăng ký xe với số tiền 7.500.000đồng và giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế.

Anh Toàn sau khi phát hiện bị mất trộm chiếc xe mô tô không trình báo, đến ngày 19/12/2022, anh Toàn đã trình báo sự việc trên đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Yên.

Tại Kết luận định giá tài sản số 71/KL-ĐGTS ngày 26/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Yên kết luận: Giá trị chiếc xe mô tô Honda Air Blade, màu S đen xám, biển kiểm soát 60B1 -X là 10.000.000đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 05/KL-HDDGTS ngày 15/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tung huyện Yên Thế kết luận: Chi phí cấp lại một căn cước công dân, một giấy phép lái xe hạng C, một giấy phép lái xe hạng A1 là 440.000đồng.

Xe mô tô Honda Air Blade, màu đen, biển kiểm soát 60B1-X và đăng ký xe mô tô là của anh Toàn. Ngày 02/3/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho Toàn.

Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm đối với 01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe hạng C, 01 giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Văn Toàn, đến nay chưa tìm thấy.

Qúa trình điều tra, anh Toàn khai trong cốp xe mô tô bị mất có 01 đăng ký xe mô tô, 01 căn cước công dân, 01 giấy phép lái xe hạng C, 01 giấy phép lái xe hạng A1 và số tiền khoảng 3.000.000 đồng. Tuy nhiên H khai trong cốp xe có 01 đăng ký xe mô tô, 01 căn cước công dân và giấy phép lái xe (H không nhớ có mấy giấy phép lái xe) cùng số tiền 560.000 đồng. Cơ quan điều tra yêu cầu anh Toàn và H đối chất nhưng anh Toàn từ chối đối chất và giữ nguyên lời khai. Do chỉ có lời khai của anh Toàn nên không đủ căn cứ xác định H trộm cắp số tiền như anh Toàn trình bày.

Chiếc xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X H và H sử dụng đi trộm cắp tài sản đã bị thu giữ trong vụ thứ tám.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Toàn yêu cầu bồi thường chi phí cấp lại các giấy tờ đã bị trộm cắp và số tiền anh Toàn để trong cốp xe mô tô bị trộm cắp, tổng là 5.000.000 đồng, các bị cáo chưa bồi thường. T yêu cầu H, H và S mỗi người trả lại cho T 1.875.000 đồng tiền T bỏ ra để chuộc xe trả cho bị hại.

Vụ thứ bảy: Khoảng 12 giờ ngày 28/11/2022, H gọi điện thoại rủ H đi trộm cắp xe mô tô, H đồng ý. H điều khiển xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X đến đón H. Sau đó, H điều khiển xe mô tô trên chở H đến kho vật liệu xây dựng của Công ty TNHH Hà Nam thuộc thôn Bến Phà, xã Nghĩa Hưng, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. H và H nhìn thấy một chiếc xe mô tô Wave, biển kiểm soát 98C1 - X (xe của anh Đào Viết C, sinh năm 1981 ở tổ dân phố Hòa Bình, thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang) dựng ở rìa đường trước cửa kho, xe vẫn cắm chìa khóa điện. H dừng xe mô tô cho H xuống xe vào trộm cắp xe, còn H điều khiển xe mô tô Future X quay về hướng cầu Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang cảnh giới và chờ H. H đi đến xe mô tô của anh C, dùng tay mở khóa xe rồi điều khiển xe đi về hướng thị trấn Bố Hạ, H đi trước, H đi sau về thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Đến nơi, H gọi điện thoại cho S hẹn gặp để bán cho S và T chiếc xe mô tô vừa trộm cắp được. Trong khi đợi T và S đến thì H và H đã dùng cờ lê tháo biển kiểm soát của xe mô tô trộm cắp được ra khỏi xe. Khi T và S đến, H và H đã bán xe mô tô này cho T và S được 6.000.000 đồng và đưa cho T biển kiểm soát của xe mô tô. Số tiền trên H và H đã chia đôi và ăn tiêu hết.

Ngày 29/11/2022, T giao nộp chiếc xe mô tô nêu trên cùng biển kiểm soát của xe cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế.

Ngày 30/11/2022, anh C có đơn trình báo bị mất xe mô tô đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lạng Giang.

Tại Kết luận định giá tài sản số 106/KL-HDDGTS ngày 06/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lạng Giang kết luận: Giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu S xanh bạc, biển kiểm soát 98C1 - X là 17.000.000 đồng.

Ngày 18/01/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại xe và chiếc biển kiểm soát 98C1 - X cho anh C.

Về trách nhiệm dân sự: Anh C không yêu cầu bồi thường. T yêu cầu H và H mỗi người trả lại cho T 3.000.000 đồng tiền T bỏ ra chuộc xe trả cho bị hại.

Vụ thứ tám: Do đã hẹn nhau từ trước nên khoảng 13 giờ ngày 29/11/2022, H điều khiển xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X đến gặp H tại chợ Úc S thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên để cùng nhau đi trộm cắp xe mô tô bán lấy tiền chia nhau. Sau đó, H điều khiển xe mô tô trên chở H đi qua cửa nhà chị Trần Thị Thủy, sinh năm 1981 ở tổ dân phố Cả Trọng, thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, H phát hiện thấy xe mô tô Honda Wave, biển kiểm soát 98B2 - X (xe của anh Nguyễn Hữu Bằng, sinh năm 1991 ở thôn Đức Liễn, xã Hồng Thái, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) để ở trước cửa nhà chị Thủy, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa. H nói với H biết về ý định trộm cắp chiếc xe đó thì H bảo H quay xe lại để H vào trộm cắp. H quay xe lại đi qua xe mô tô của anh B khoảng 30 mét thì dừng xe lại cho H xuống xe, còn H đứng cảnh giới cho H. H đi đến xe mô tô của anh B, dùng tay mở khóa rồi điều khiển xe mô tô trộm cắp được đi trước, H điều khiển xe mô tô Future X đi sau về huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên để tiêu thụ.

Đến 15 giờ 50 phút cùng ngày, anh B trình báo sự việc đến Công an huyện Yên Thế. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác Công an huyện Yên Thế phối hợp với Công an thị trấn Hương S , huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện và bắt giữ H khi H đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98B2- X của anh B ở khu vực cầu Mỹ S thuộc thị trấn Hương S , huyện Phú Bình. Thu giữ xe mô tô biển kiểm soát 98B2-X; 01 mũ bảo hiểm; 01 đồng hồ; 01 điện thoại Iphone số IMEI: 356696089699438; 01 ví da màu nâu bên trong có 443.000 đồng, 01 căn cước công dân, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe hạng A1 đều mang tên Vũ Đình H, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe tên Vũ H Luyện, biển số đăng ký 20P1-X, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe tên Ngô Thị L, biển số đăng ký 20G1-X, 01 thẻ L; số tiền 54.000 đồng và 01 mảnh giấy bạc 01 mặt màu trắng, 01 mặt màu vàng, bên trong gói chất cục bột màu trắng (nghi là ma túy).

Đối với H, khi thấy H bị bắt giữ thì quay xe đi về nhà cất xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X rồi bỏ trốn lên tỉnh Cao Bằng. Đến ngày 02/12/2022, H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Thu giữ của H 01 điện thoại di động Mobell.

Khám xét khẩn cấp nhà H, thu giữ 01 xe mô tô Honda Future X, biển kiểm soát 20P1 - X; 01 xe mô tô Honda Wave màu S đỏ trắng đen, biển kiểm soát 20G1 - X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô tên Bùi Văn D, biển số đăng ký 20G1 - X; 01 giấy bán xe.

Quá trình điều tra đã tạm giữ của T 01 điện thoại Iphone, số IMEI: 356796483883198, số IMEI2: 356796483836493.

Ngày 30/11/2022, S giao nộp 01 điện thoại Iphone 11 vỏ màu xanh.

Tại Kết luận định giá tài sản số 82 ngày 01/02/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thế kết luận: Giá trị chiếc xe mô tô kiểu dáng Wave, màu S : trắng - đen - bạc, biển kiểm soát 98B2 - X, xe không có gương chiếu hậu, trong cốp xe không có tài sản gì là 7.500.000 đồng.

Ngày 02/12/2022, cơ quan điều tra thu giữ video tại Trung tâm cứu hộ máy tính 911 thuộc tổ dân phố Cả Trọng, thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Tại Kết luận giám định số: 119 ngày 16/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: Không phát hiện dấu vết cắt ghép nội dung hình ảnh trong 01 file video dung lượng 45,4MB; thời lượng: 07 phút 53 giây được lưu trữ trong 01 đĩa DVD-R" và trích xuất được 20 hình ảnh thể hiện diễn biến sự việc có trong các file video gửi giám định.

Quá trình điều tra, H, H khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp 08 xe mô tô nêu trên. Tiến hành thực nghiệm điều tra, H và H thực hiện thuần thục các động tác.

S không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp 08 xe mô tô nhưng hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ tài sản do H và H trộm cắp được nên đồng phạm với H và H.

T biết xe mô tô mua của H và H từ vụ thứ 3 đến vụ thứ 7 là tài sản do trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua để bán thu lợi bất chính.

Về vật chứng:

- Xe mô tô biển kiểm soát 98B2-X là của anh B. Ngày 18/01/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh B;

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe tên Vũ H Luyện, biển số đăng ký 20P1- X, 01 xe mô tô Future X, biển kiểm soát 20P1 - X mà H và H sử dụng để đi trộm cắp tài sản là của ông Vũ H Luyện, sinh năm 1957 ở xóm Thanh Lương, xã Tân Hòa, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Ông Luyện không biết H mượn xe để đi trộm cắp tài sản nên không xử lý. Ngày 02/3/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại xe và đăng ký cho ông Luyện.

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe tên Ngô Thị L, biển số đăng ký 20G1- X là của chị Ngô Thị L, sinh năm 1984 ở xóm Thanh Lương, xã Tân Hòa, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên là vợ của H, không liên quan đến việc phạm tội. Ngày 02/3/2023, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Lan.

- 01 điện thoại Iphone có số IMEI: 356696089699438 là của H dùng để liên lạc với H rủ H đi trộm cắp tài sản;

- 01 mũ bảo hiểm; 01 đồng hồ; 01 ví da màu nâu đã cũ bên trong có 443.000 đồng, 01 căn cước công dân, 01 chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe hạng A1 đều mang tên Vũ Đình H, 01 thẻ L đều là tài sản cá nhân của H. Còn số tiền 54.000 đồng là tiền H trộm cắp được còn lại ở vụ thứ 6, những tài sản khác không liên quan đến việc phạm tội, H đề nghị trả lại.

- 01 điện thoại di động Mobell là của H dùng để liên lạc với H khi H rủ đi trộm cắp tài sản và liên lạc với S để bán những xe trộm cắp được trong các vụ trộm cắp tài sản trên.

- 01 xe mô tô Honda Wave màu S đỏ trắng đen, biển kiểm soát 20G1 - X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô tên Bùi Văn D, biển số đăng ký 20G1 - X, 01 giấy bán xe là của chị Đào Thúy M, sinh năm 1983 ở Diễn Cầu, xã Tân Đức, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (là vợ của H) nhờ H đứng ra mua xe, ký tên trong giấy mua bán xe với cửa hàng mua bán xe cũ, không liên quan đến việc phạm tội. Chị M đề nghị nhận lại.

- 01 điện thoại Iphone, số IMEI: 356796483883198, số IMEI2: 356796483836493 là của T dùng để liên lạc với S khi S rủ đi mua các xe mà H và H trộm cắp.

- 01 điện thoại Iphone 11 vỏ màu xanh là của S dùng để liên lạc với T và H, H khi mua các xe mà H, H trộm cắp được.

Về trách nhiệm dân sự: Anh B không yêu cầu bồi thường.

Ngoài hành vi trộm cắp, H còn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 29/11/2022 tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, ngày 22/02/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Thế đã có Công văn số 157 gửi Công an huyện Phú Bình để xác minh và xử lý theo thẩm quyền.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 02/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Vũ Ngọc S 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 28/12/2022

- Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 323; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Đỗ Hoàng T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo Đỗ Hoàng T số tiền 5.000.000đồng nộp ngân sách nhà nước.

* Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 589 Bộ luật dân sự:

- Buộc bị cáo Vũ Đình H phải bồi thường, trả tiền cho những người sau: anh Bùi Văn B 5.000.000đ; anh Hà Văn Hòa 1.365.000đồng; anh Nguyễn Mạnh Hà 1.335.000đồng; Anh Nguyễn Văn Toàn 946.000đồng; Trả cho bị cáo Đỗ Hoàng T 11.000.000đồng.

- Buộc bị cáo Lê Văn H phải bồi thường, trả tiền cho những người sau: anh Bùi Văn B 5.000.000đồng; anh Hà Văn Hòa 3.000.000đồng; anh Nguyễn Mạnh Hà 5.000.000đồng; Trả cho bị cáo Đỗ Hoàng T 18.000.000đồng.

- Buộc Vũ Ngọc S phải bồi thường, trả tiền cho những người sau: anh Bùi Văn B 2.000.000đồng, anh Hà Văn Hòa 2.000.000đồng; anh Nguyễn Mạnh Hà 3.000.000đồng; Trả cho bị cáo Đỗ Hoàng T 4.800.000đồng - Buộc anh Nguyễn Mạnh C phải hoàn trả lại cho bị cáo Đỗ Hoàng T số tiền 7.000.000đồng.

Ngoài ra bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

* Sau khi xét xử sơ thẩm ngày 13/6/2023 bị cáo Đỗ Hoàng T nộp đơn kháng cáo xin hưởng án treo. Bị cáo Vũ Ngọc S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

* Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo S , bị cáo T giữ nguyên kháng cáo. Các bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là sai, đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, phạm tội lần đầu, tại phiên tòa xác định hành vi của các bị cáo Toà án cấp sơ thẩm xét xử là đúng, không oan. Các bị cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội được sửa chữa sai lầm.

Bị cáo T trình bày: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo lần đầu vi phạm pháp luật, do nhận thức hạn chế nên vi phạm, trong thời gian sống ở địa phương bị cáo luôn tuân thủ pháp luật được chính quyền địa phương xác nhận là công dân thực hiện tốt các quy định chính sách của địa phương, không vi phạm gì, bị cáo khai báo thành khẩn. Sau khi án sơ thẩm xử xong các bị cáo nhận thức việc làm của mình là sai đã nộp tiền phạt bổ sung và án phí. Bị cáo đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có cơ hội được sửa chữa sai lầm.

* Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Ngọc S. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Hoàng T, xử phạt bị cáo Đỗ Hoàng T 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thửa thách đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Về án phí HSPT: Bị cáo T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo S phải chịu 200.000đồng án phí hình sự phúc thẩm.

- Phần tranh luận: Các bị cáo không tranh luận gì - Bị cáo Đỗ Hoàng T nói lời sau cùng: Đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo.

- Bị cáo Vũ Ngọc S nói lời sau cùng: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét hành vi phạm tội của các bị cáo: Hội đồng xét xử thấy:

Được sự hứa hẹn trước của Vũ Ngọc S về việc sẽ tiêu thụ xe mô tô trộm cắp, trong khoảng thời gian từ ngày 17/10/2022 đến ngày 29/11/2022, Vũ Đình H và Lê Văn H đã cùng nhau thực hiện 08 vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị tài sản của các lần trộm cắp là 99.400.000 đồng, sau đó được S tiêu thụ, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 17/10/2022, trộm cắp xe mô tô Honda Wave màu S đen, biển kiểm soát 98C1-X trị giá 12.000.000 đồng của anh Bùi Văn B để ở tổ dân phố Hoàng Hoa Thám, thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

Vụ thứ hai: Ngày 27/10/2022, trộm cắp xe mô tô Honda Wave, màu S xanh, biển kiểm soát 98H1 - X, trị giá 12.000.000 đồng của anh Nguyễn Đức Toàn để ở thôn Nguộn B, xã Cao Xá, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang và số tiền 340.000đồng trong cốp xe. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 12.340.000 đồng.

Vụ thứ ba: Ngày 09/11/2022, trộm cắp xe mô tô YAMAHA Exciter 150 màu S đen, biển kiểm soát 98F1 - X trị giá 17.000.000đồng của anh Nguyễn Mạnh C ở tổ dân phố Thống Nhất, thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

Vụ thứ tư: Ngày 15/11/2022, trộm cắp xe mô tô Wave màu S xanh, biển kiểm soát 98C1 - X trị giá 10.000.000 đồng của anh Hà Văn Hòa để ở tổ dân phố Hòa Bình, thị trấn Bố Hạ, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

Vụ thứ năm: Ngày 16/11/2022, trộm cắp xe mô tô Honda Wave, màu S đen, biển kiểm soát 98H1 - X trị giá 13.000.000đồng của anh Nguyễn Mạnh Hà ở tổ dân phố Lao Động, thị trấn Nhã Nam, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

Vụ thứ sáu: Ngày 24/11/2022, trộm cắp xe mô tô Honda Air Blade, màu đen, biển kiểm soát 60B1-X trị giá 10.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn Toàn để ở tổ dân phố Đồi Đỏ, thị trấn Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang và số tiền 560.000 đồng trong cốp xe. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 10.560.000 đồng.

Vụ thứ bảy: Ngày 28/11/2022, trộm cắp xe mô tô Wave, biển kiểm soát 98C1 - X trị giá 17.000.000 đồng của anh Đào Viết C để ở thôn Bến Phà, xã Nghĩa Hưng, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Vụ thứ tám: Ngày 29/11/2022, trộm cắp xe mô tô Wave, biển kiểm soát 98B2 - X trị giá 7.500.000 đồng của anh Nguyễn Hữu Bằng để ở tổ dân phố Cả Trọng, thị trấn Phồn Xương, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.

Như vậy, với việc thực hiện 08 hành vi lén lút chiếm đoạt 08 chiếc xe mô tô (trị giá mỗi chiếc từ 7.500.000đ đến 17.000.000đ), tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 99.400.000đ thì hành vi của Vũ Đình H, Lê Văn H đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Như vậy, bị cáo Vũ Ngọc S, mặc dù không trực tiếp tham gia thực hiện trộm cắp tài sản cùng H và H nhưng S đã hứa hẹn trước với H về việc sẽ tiêu thụ tài sản do H trộm cắp được, trên thực thế S đã trực tiếp mua của H và H 2 vụ đầu; rủ T cùng mua 5 vụ tiếp theo; vụ thứ 8 H và H mới thực hiện hành vi trộm cắp, chưa kịp tiêu thụ thì bị phát hiện. Do đó, hành vi của S đã giúp sức để H và H thực hiện tội phạm nên phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với H và H với vai trò đồng phạm.

Đối với Đỗ Hoàng T, sau 2 lần đầu mua lại xe mô tô của S mà không biết là tài sản trộm cắp, từ ngày 09/11/2022 đến ngày 28/11/2022, T đã 5 lần cùng với S mua xe mô tô của H và H mặc dù biết rõ cả 5 chiếc xe mô tô là tài sản do H, H trộm cắp được nhằm thu thu lợi bất chính. Tổng số tiền T thu lợi bất chính là 10.300.000đồng, T và S chia nhau (riêng lần cuối thu lời 500.000đ T chưa chia cho S ).

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy:

Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất hành vi, vai trò, bị cáo S thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; Bị cáo T cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự. Án sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo S xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo T xin hưởng án treo nên các vấn đề khác của bản án sơ thẩm đã tuyên về tội danh, điều luật áp dụng, phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, HĐXX phúc thẩm không đặt ra giải quyết.

[2]. Xét nội dung kháng cáo của bị cáo S thấy:

- Về tình tiết tăng nặng: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy: Cấp sơ thẩm xác định quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” về hành vi phạm tội của mình, đã áp dụng cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Án sơ thẩm căn cứ nhân thân và các tình tiết tặng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo mức án 3 năm 03 tháng tù là đảm bảo đúng quy định. Quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo cũng không bồi thường gì cho bị hại, không xuất trình thêm tài liệu gì mới so với cấp sơ thẩm nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3]. Xét nội dung kháng cáo của bị cáo T thấy: Tòa án sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Quá trình xét xử sơ thẩm bị cáo T đã tự bỏ tiền ra để chuộc xe về trả cho anh Nguyễn Đức Toàn, anh Nguyễn Văn Toàn, anh Đào Viết C. Xét thấy việc bị cáo tự nguyện bỏ tiền chuộc xe khắc phục hậu quả thể hiện việc bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Sau khi án sơ thẩm xử xong bị cáo tự nguyện nộp tiền phạt bổ sung 5.000.000đồng và 200.000đồng tiền án phí. Được chính quyền địa phương xác nhận trong thời gian sống và làm việc ở địa phương bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú. Do vậy, cần áp dụng cho bị cáo thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ. Xét bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có địa chỉ cư trú rõ ràng. Việc không bắt bị cáo T phải chấp hành hình phạt tù cũng không gây ảnh hưởng xấu trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm, không gây nguy hiểm cho xã hội. Để đảm bảo tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, không cần bắt bị cáo T phải cách ly khỏi xã hội, mà cho bị cáo T cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục bị cáoT trở thành công dân có ích cho xã hội. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo T được hưởng án treo là phù hợp hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15-4-2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 và Điều 65 Bộ luật hình sự.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm h, b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Đỗ Hoàng T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Vũ Ngọc S phải chịu 200.000đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Ngọc S. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 02/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đối với bị cáo Vũ Ngọc S.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Vũ Ngọc S 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 28/12/2022

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Đỗ Hoàng T. Sửa bản án sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 02/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang đối với bị cáo Đỗ Hoàng T.

Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 323; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 65 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo: Đỗ Hoàng T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Phạt bổ sung bị cáo Đỗ Hoàng T số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) nộp ngân sách nhà nước. (Xác nhận bị cáo đã nộp số tiền 5.200.000đ theo biên lai thu số .........ngày .........của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Thế).

Giao bị cáo Đỗ Hoàng T cho UBND xã Tân Hòa, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo (bị cáo Đỗ Hoàng T) thay đổi nơi cư trú thì áp dụng theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm h, b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Đỗ Hoàng T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Vũ Ngọc S phải chịu 200.000đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 136/2023/HS-PT

Số hiệu:136/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về