Bản án về tội trộm cắp tài sản số 135/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 135/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25/8/2023tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, thành phố H xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 132/2023/HSST ngày 21/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số137/QĐXXST-HS ngày 10/8/2023 đối với bị cáo:

PHẠM THÁI C, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Số 2, ngõ 16 đê TH, phường CD, quận HBT, H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Ngọc B và bà Triệu Thị Thanh Th; Vợ là Nguyễn Thị Ngọc H, có 02 con : con lớn sinh 2015, con nhỏ sinh 2019. Tiền án tiền sự: Không. Nhân thân: Bản án số 376 ngày 27/11/2012 của Tòa án nhân dân quận HĐ xử phạt Phạm Thái C 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội Trộm cắp tài sản. C đã đóng án phí hình sự sơ thẩm (đã xóa án tích); Ngày 06/7/2009, Công an phường BK, HBT, H ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” số tiền 150.000 đồng đối với Phạm Thái C nhưng do hồ sơ bị thất lạc nên không có kết quả xác minh; Ngày 13/6/2023, Cơ quan điều tra- Công an quận ĐĐ, H đã khởi tố bị can đối với Phạm Thái C về hành vi Trộm cắp tài sản xảy ra ngày 05/6/2023 tại phường LT, ĐĐ, H. Đầu thú, tạm giữ ngày 12/4/2023, đến ngày 15/4/2023 hủy bỏ biện pháp ngăn chặn chuyển sang Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an Thành phố H theo Lệnh tạm giam của Tòa án nhân dân quận ĐĐ, H. Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại:

1/Chị Kha Thị Yến Ch. sinh năm 2002, HKTT: Bản XN, xã HL, KS, Nghệ An. Vắng mặt tại phiên tòa ( có đơn xin vắng mặt).

2/Chị Hồ Thị Thanh Ph, sinh năm 2002, HKTT: Xóm 6, QT, QL, Nghệ An.

Vắng mặt tại phiên tòa ( có đơn xin vắng mặt).

3/Chị Phạm Thị Thùy N, sinh năm 2002, HKTT: Bản TB, xã TQ, huyện TD, Nghệ An; Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin vắng mặt).

4/Chị Đàm Thị Thu H, sinh năm 2002 trú tại: Thôn PK, xã QT, huyện QT, Quảng Bình. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin vắng mặt).

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Phạm Thị Lan H, sinh năm 1994. Nơi cư trú: số 2 ngõ 16 đê TH, phương CD, HBT, H: Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/4/2023, chị Kha Thị Yến Ch, chị Hồ Thị Thanh Ph, chị Phạm Thị Thùy N, chị Đàm Thị Thu H đều là sinh viên HVTA trình báo Công an xã KS về việc: Khoảng 09 giờ sáng ngày 07/4/2023, tại phòng 408 tòa nhà K2, ký túc xá trường HVTA, chị Ch bị mất trộm 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO A31 màu xanh ngọc bên trong lắp sim số 037960xxxx, đã qua sử dụng và số tiền 100.000 đồng để ở ốp sau điện thoại; chị Ph bị mất trộm 01 máy tính nhãn hiệu HP ProBook 450G2, Core I5, màu đen, màn hình 15,6 ich đã qua sử dụng, 01 cặp đựng máy tính xách tay cùng 900.000 đồng để trong cặp; chị N bị mất trộm 01 máy tính nhãn hiệu ASUS VIVOBOOK F512J/WIN10 PRO, Core I3 màu xám đậm, màn hình 15,6 inch đã qua sử dụng; chị H bị mất trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37, màu hồng đã qua sử dụng, bên trong lắp sim số 0342276760 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu đen, bản 128GB đã qua sử dụng, lắp sim số 0796391256.

Tại bản kết luận định giả tài sản số 58/KL-HDĐGTS ngày 20/4/2023, của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện GL, kết luận:

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A31, màu xanh ngọc, máy đã qua sử dụng tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07/4/2023 mua mới từ khoảng tháng 10/2020 có giá trị: 1.900.000 đồng - 01 (Một) ốp điện thoại bằng nhựa dẻo màu đen được lắp vào chiếc điện thoại OPPO A31, đã qua sử dụng, mua khoảng gần 1 năm, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07/4/2023 có giá trị: 0 đồng - 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu đen, bản 128GB, máy đã qua sử dụng tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07/4/2023, mua mới từ khoảng đầu năm 2022 có giá trị: 7.500.000 đồng - 01 (Một) ốp điện thoại bằng nhựa dẻo màu đen được lắp vào chiếc điện thoại Iphone 11, đã qua sử dụng, mua được khoảng 6 tháng, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07/4/2023, có giá trị: 0 đồng - 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37, màu hồng, máy đã qua sử dụng, được mua mới cuối năm 2018, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07/4/2023, có giá trị 500.000 đồng - 01 (Một) máy tính nhãn hiệu HP ProBook 450G2, Core I5, màu đen, màn hình 15,6 ich, máy đã qua sử dụng, mua từ khoảng tháng 7/2022, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07/4/2023, có giá trị 3.000.000 đồng -01 (Một) túi xách đựng laptop màu đen bằng vải, đã qua sử dụng, mua mới từ khoảng tháng 7/2022, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07/4/2023, có giá trị:

80.000 đồng

- 01 (Một) máy tính nhãn hiệu ASUS VIVOBOOK F512J/WIN10 PRO, Core I3, màu xám đậm, màn hình 15,6 ich, máy đã qua sử dụng, mua tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 07/4/2023, có giá trị: 8.000.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp: 20.980.000 đồng Ngày 12/4/2023, Phạm Thái C đến Công an huyện GL đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản ngày 07/4/2023 tại ký túc xá HVTA.

Vật chứng thu giữ của Phạm Thái C: 01 chiếc mũ bảo hiểm dạng mũ lưỡi trai màu đen, trên đỉnh mũ có sọc trắng ở giữa; 01 đôi dép lê, phần quai có ba sọc màu đỏ, trắng, xanh; 01 áo khoác gió màu xanh; 01 khẩu trang màu đen đều đã qua sử dụng, C sử dụng khi đi trộm cắp tài sản ngày 07/4/2023 tại HVTA. Thu giữ của chị Phạm Thị Lan H (em gái C) 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda SH mode, màu đỏ đen mang BKS: 29D2- xxxxx đã qua sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Thái C khai nhận: Do cần tiền tiêu xài nên khoảng 08h30’ ngày 07/4/2023, C điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda SH mode, BKS: 29D2-xxxxx mượn của em gái là Phạm Thị Lan H đi từ nhà đến HVTA ở KS, GL, H để trộm cắp tài sản. Khi đến nơi C đi xe máy vào nhà K2, ký túc xá HVTA sau đó đi bộ lên ký túc xá. Tại phòng 408 nhà K2, ký túc xá HVTA, lợi dụng lúc trong phòng có sinh viên đang ngủ, C đã lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A31 màu xanh ngọc có ốp nhựa màu đen, phía sau ốp có 100.000 đồng để trên bàn học cuối giường ngủ tầng 1 của chị Ch; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37 màu hồng để trên kệ đồ dùng học tập sát giường ngủ tầng 1 của chị H; 01 máy tính xách tay nhãn hiệu HP ProBook 450G2, Core I5, màu đen, màn hình 15,6 ich màu đen để bên trong túi đựng máy tính màu đen, bên trong túi còn có 900.000đồng để trên bàn học cuối giường tầng 2 của chị Ph; 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu ASUS VIVOBOOK F512J/WIN10 PRO, Core I3, màu xám đậm, màn hình 15,6 ich để trên bàn học cuối giường ngủ tầng 1 của chị Ph. C để tất cả các tài sản lấy được vào chung một túi đựng laptop màu đen lấy được đi xuống dưới tầng 1 và để túi vào chỗ để chân của xe máy, đi xe ra ngoài cổng HVTA. Khi đi được một đoạn khoảng 700m thì C dừng xe, tháo sim, tắt máy của ba chiếc điện thoại để tránh bị phát hiện. Quá trình điều khiển xe máy đi qua cầu VT do thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng, máy cũ và màn hình bị vỡ nên C vứt chiếc điện thoại này xuống sông không rõ ở đâu. Đối với 2 chiếc điện thoại và 2 máy tính còn lại C bán cho 1 người đàn ông không rõ nhân thân tại khu vực ngã tư TĐN- LTN, BK, HBT, H được 7.000.000đồng, khi bán thì C đưa cho người đàn ông này túi đựng laptop màu đen bên trong đựng 2 chiếc điện thoại và 2 máy tính. Toàn bộ số tiền bán tài sản do trộm cắp và 1.000.000đồng tiền mặt C đã tiêu xài cá nhân hết.

Cơ quan điều tra tiến hành thân dẫn Phạm Thái C đến vị trí tắt máy điện thoại, tháo và vứt sim điện thoại thì thu giữa được 01 sim Viettel có số seri 898404800031292xxxx. Quá trình điều tra xác định được sim Viettel có số seri 898404800031292xxxx là số thuê bao 037960xxxx phù hợp với số sim của chị Ch bị mất cùng chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A31 màu xanh ngọc. Ngày19/5/2023, Cơ quan CSĐT- Công an huyện GL đã trả 01 sim Viettel có số seri 898404800031292xxxx cho chị Kha Thị Yến Ch.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH mode, màu đỏ đen mang BKS:

29D2-xxxxx đã qua sử dụng đăng ký chủ sở hữu là chị Phạm Lan H, ngày 07/4/2023, chị H không biết việc C sử dụng chiếc xe máy để trộm cắp tài sản nên ngày 20/5/2023 Cơ quan CSĐT- Công an huyện GL đã trả chiếc xe máy trên cho chị H là đúng quy định.

Người đàn ông mua tài sản của C trộm cắp mà có, do không rõ nhân thân, khi bán tài sản C không cho người đàn ông mua biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan CSĐT- Công an huyện GL không có căn cứ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, C cùng với gia đình đã xin lỗi và đền bù thiệt hại cho các bị hại; chị Ch, chị Ph, chị N, chị H không có yêu cầu đề nghị gì về bồi thường dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Phạm Thái C.

Bản cáo trạng số 132/CT-VKSGL ngày 21/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện GL truy tố Phạm Thái C về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thái C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng như Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GL giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa, sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Thái C phạm tội Trộm cắp tài sản, - Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Thái C từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/4/2023, đến ngày 15/4/2023.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo - Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật TTHS: Tịch thu tiêu hủy: 01 đôi dép lê, 01 chiếc mũ bảo hiểm, 01 áo khoác gió, 01 khẩu trang màu đen do liên quan đến hành vi phạm tội và bị cáo không có yêu cầu gì.

- Về dân sự: Không ai có yêu cầu gì nên không phải xem xét giải quyết.

Bị cáo không có tranh luận gì bổ sung thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Phạm Thái C khai nhận toàn bộ nội dung vụ việc phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 30 phút ngày 07/4/2023, tại phòng 408 nhà K2 ký túc xá HVTA tại KS, GL, H, bị cáo Phạm Thái C đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A31, màu xanh ngọc, máy đã qua sử dụng có giá trị 1.900.000 đồng, 01 ốp điện thoại bằng nhựa dẻo màu đen được lắp vào chiếc điện thoại OPPO A31, đã qua sử dụng có giá trị 0 đồng cùng 100.000 đồng tiền mặt của chị Kha Thị Yến Ch; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu đen, bản 128GB, máy đã qua sử dụng có giá trị: 7.500.000 đồng, 01 ốp điện thoại bằng nhựa dẻo màu đen được lắp vào chiếc điện thoại Iphone 11, đã qua sử dụng có giá trị 0 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37, màu hồng, máy đã qua sử dụng có giá trị 500.000 đồng của chị Đàm Thị Thu H, 01 máy tính nhãn hiệu HP ProBook 450G2, Core I5, màu đen, màn hình 15,6 ich, máy đã qua sử dụng có giá trị 3.000.000 đồng, 01 túi xách đựng laptop màu đen bằng vải, đã qua sử dụng có giá trị 80.000 đồng cùng 900.000 đồng tiền mặt của chị Hồ Thị Thanh Ph; 01 máy tính nhãn hiệu ASUS VIVOBOOK F512J/WIN10 PRO, Core I3 màu xám đậm, màn hình 15,6 ich, máy đã qua sử dụng có giá trị 8.000.000 đồng của chị Phạm Thị Thùy N. Tổng giá trị tài sản bị cáo Phạm Thái C trộm cắp là 21.980.000 đồng. Hành vi của bị cáo C đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản, vi phạm khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo cùng lúc trọm cắp tài sản của nhiều người giữa ban ngày là thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản; bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, tại Công an huyện GL cho bị cáo được tại ngoại thì bị cáo lại tiếp tục trộm cắp tại địa bàn quận ĐĐ, bị công an quận ĐĐ bắt, tạm giam. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

Đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; Tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; bị cáo đầu thú, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[2] Về những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cơ bản phù hợp với kết quả nghị án của Hội đồng xét xử.

[3] Đánh giá về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, không có ai khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.

[4] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt này đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm ổn định.

[5] Về dân sự: Không ai còn yêu cầu gì nên Tòa án không phải xem xét giải quyết.

[6] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 đôi dép lê, 01 chiếc mũ bảo hiểm, 01 áo khoác gió, 01 khẩu trang màu đen do bị cáo xác định không yêu cầu trả lại và liên quan đến hành vi phạm tội.

[7] Về án phí: Bị cáo chịu án phí HSST theo pháp luật quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự

- Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự - Điều 136; Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Tuyên bố:

Bị cáo Phạm Thái Cphạm tội Trộm cắp tài sản;

Xử phạt:

Bị cáo Phạm Thái C 09 ( chín) tháng, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/4/2023 đến ngày 15/4/2023.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: Không phải xem xét giải quyết.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 đôi dép lê, 01 chiếc mũ bảo hiểm, 01 áo khoác gió, 01 khẩu trang màu đen đều đã qua sử dụng. (Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/7/2023 giữa Công an huyện GL và Chi cục thi hành án dân sự huyện GL).

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

Án xử công khai, sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; những người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án vắng mặt hợp lệ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ có quyền kháng cáo về phần dân sự có liên quan.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 135/2023/HS-ST

Số hiệu:135/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về