Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PH, TỈNH BẮC NINH 

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 2 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Ph, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 146/2020/HSST ngày  28  tháng  12  năm  2020,  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số  08/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 1 năm 2021 đối với bị cáo:

Tống Văn H, sinh năm 1991. Tên gọi khác: Không.

- Nơi cư trú: Xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

- Con ông: Tống Văn N, sinh năm 1949; con bà: Hà Thị T; sinh năm: 1949; Gia đình bị cáo có 09 anh chị em, bị cáo là con nhỏ nhất; Vợ: Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1991; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012.

- Tiền án: Tại Bản án số 336/2018/HSST ngày 12/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt Tống Văn H 14 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Tiền sự: Không.

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/10/2020 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Xí nghiệp quản lý vận hành Khu công nghiệp Yên Ph.

Địa chỉ: Thôn Ô C, xã Đông T, huyện Yên Ph, tỉnh Bắc Ninh do anh Nguyễn Quyết T, sinh năm 1977, trú tại: Viêm X, phường Hòa L, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (Vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1- Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1979 (Vắng mặt) 

2-  Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1978 (Vắng mặt) 

Cùng trú tại: Thôn Ô cách, xã Đông Tiến, huyện Yên Ph, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG BẢN ẤN

Tống Văn H, sinh năm 1991, trú tại xóm Tỉu Keo, xã Phú Đ, huyện Định H, tỉnh Thái Nguyên là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2017, không có nghề nghiệp và chỗ ở ổn định. Khoảng đầu tháng 10/2020, H có đến sống lang thang ở khu vực gần công trường xây dựng của Xí nghiệp quản lý vận hành Khu Công nghiệp Yên Phong ở thôn Ô C, xã Đông T, huyện Yên Ph, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình sống ở đây, H phát hiện ở trong công trường để nhiều vật liệu xây dựng nhưng không có người trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu sài. Từ ngày  18/10/2020 đến ngày 21/10/2020, H đã đi vào công trường qua đoạn tường rào bị đổ, trộm cắp tài sản tại công trường xây dựng của Xí nghiệp quản lý vận hành Khu Công nghiệp Yên Ph 03 lần rồi vác ra ngoài bán. Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 18 giờ ngày 18/10/2020, H đi vào công trường trộm cắp  10 bộ giàn giáo kích thước (1,2x1,5)m, 01 bộ giàn giáo kích thước (0,6x1,2)m, 06 tấm mâm giáo và 03 bộ giằng chéo giàn giáo. H dùng tay vác số tài sản trên ra ngoài công trường theo đường tường rào tôn và để ở vị trí bờ ruộng, cách công trường khoảng 100 mét. Sau đó, H đi bộ đến nhà anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1978 và vợ là chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1979 đều trú tại thôn Ô Cách, xã Đông Tiến, huyện Yên Phong làm nghề thu mua phế liệu để đặt vấn đề bán những tài sản này. H tự giới thiệu là công nhân công trường xây dựng, có tài sản không sử dụng đến cần bán. Sau khi anh Đ, chị Th đồng ý mua thì H nhờ anh Đ đi xe chở hàng ra vị trí bờ ruộng để chở những tài sản mà H trộm cắp về nhà anh Đ cân hàng. Sau đó, H bán số   tài sản trộm cắp được cho anh Đ, chị Th với giá 1.600.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 18 giờ ngày 19/10/2020, H tiếp tục đi vào công trường theo đường tường rào tôn đến vị trí để các khung nhôm cửa còn mới, chưa lắp đặt của công trường và trộm cắp được: 02 bộ khung nhôm cửa kích thước (170x80)cm, bản rộng 05cm, dày 1,2mm; 06 bộ khung nhôm cửa kích thước (160x60)cm, bản rộng 05cm, dày 1,2mm; 01 bộ khung nhôm cửa kích thuớc (80x60)cm, bản rộng  05cm, dày 1,2mm. Sau khi trộm cắp được tài sản, H mang đến bán cho anh Đ, chị  Th với giá 700.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 18 giờ ngày 21/10/2020, H đi vào công trường và trộm cắp được: 06 thanh nhôm dài 3m, bản rộng 05cm, dày 1,2mm và 04 thanh nhôm dài 1,5m, bản rộng 05cm, dày 1,2mm. Khi H đang vác những tài sản trộm cắp đi đến đoạn đường mương nước cạnh công trường thì bị lực lượng bảo vệ công trường phát hiện và giữ lại, báo lực lượng Công an xã Đông Tiến đến lập biên bản sự việc.

Cùng ngày, Công an xã Đông T bàn giao H cùng vật chứng thu giữ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong. Tại Cơ quan điều tra, H đã tự thú về hành vi trộm cắp tài sản tại công trường các ngày 18, 19/10/2020.

Ngày 21/10/2020, sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh Phùng Minh T, sinh năm 1987, trú tại thôn Chí P, xã Sơn Đ, huyện Ba V, thành phố Hà Nội là cán bộ kỹ thuật của Xí nghiệp quản lý vận hành Khu Công nghiệp Yên Ph đã gửi đơn trình báo sự việc đến Công an huyện Yên Ph.

Ngày 23/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Ph đã yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Ph định giá số tài sản mà Tống Văn H trộm cắp.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 78/KL-ĐG ngày 13/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Phong kết luận:

“- 10 bộ giáo tiệp xây dựng kích thước (1,2x1,5)m cũ đã qua sử dụng có giá  2.900.000 đồng.

- 01 bộ giáo tiệp xây dựng kích thước (0,6x1,2)m cũ đã qua sử dụng có giá  197.000 đồng.

- 06 tấm mâm giàn giáo sắt cũ đã qua sử dụng có giá 978.000 đồng.

- 03 bộ giằng chéo giàn giáo cũ đã qua sử dụng có giá 240.000 đồng.

- 02 bộ khung nhôm cửa kích thước (170x80)cm, bản rộng 05cm, dày 1,2mm   mới chưa qua sử dụng có giá 2.830.000 đồng.

- 06 bộ khung nhôm cửa kích thước (160x60)cm, bản rộng 05cm, dày 1,2mm mới chưa qua sử dụng có giá 6.600.000 đồng.

- 01 bộ khung nhôm cửa kích thuớc (80x60)cm, bản rộng 05cm, dày 1,2mm mới chưa qua sử dụng có giá 562.000 đồng.

- 06 thanh nhôm dài 3m, bản rộng 05cm, dày 1,2mm mới chưa qua sử dụng có giá 1.350.000 đồng.

- 04 thanh nhôm dài 1,5m, bản rộng 05cm, dày 1,2mm mới chưa qua sử dụng có giá 460.000 đồng.”.

Tổng giá trị tài sản Tống Văn H trộm cắp là 16.117.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 01/CT-VKSYP ngày 28/12/2020 của VKSND huyện Yên phong, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Tống Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản  1 Điều 173 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên toà, bị cáo đều thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của các bị cáo là đúng và khai nhận: Trong khoảng thời gian từ ngày 18 đến ngày 21 tháng 10 năm 2020, bị cáo đã thực hiện 03 vụ trộm cắp tài sản tại công trường xây dựng của Xí nghiệp quản lý vận hành Khu Công nghiệp Yên Phong ở thôn Ô C, xã Đông T, huyện Yên Ph, tỉnh Bắc Ninh. Tổng trị giá số tài sản mà H trộm cắp của Xí nghiệp quản lý vận hành Khu Công nghiệp Yên Phong là 16.117.000 đồng. Toàn bộ số tài sản trên đã được thu hồi và trả lại cho bị hại đầy đủ.

Người bị hại là vắng mặt tại phiên tòa, nhưng qua lời khai có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Xác nhận lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra là đúng với sự việc Xí nghiệp đã bị mất tài sản vào 18 giờ các ngày 18,19,21/10/2020. Hiện cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại toàn bộ tài sản mà bị cáo đã trộm cắp cho Xí nghiệp. Nay không yêu cầu giải quyết trách nhiệm dân sự.

Đại diện VKSND huyện Yên Ph thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã khẳng định: Trong các ngày 18,19,21/10/2020 Tống Văn H đã thực hiện 3 hành vi trộm cắp tài sản của Xí nghiệp quản lý vận hành Khu Công nghiệp Yên Ph. Tổng trị giá số tài sản mà H trộm cắp là 16.117.000 đồng, nên đã giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố Tống Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích tính chất của vụ án, các tình tiết   tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo đã đề nghị HĐXX:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS đề nghị xử phạt Tống Văn H từ 16 tháng đến 20 tháng tù. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo;

Về trách nhiệm dân sự và vật chứng: Toàn bộ tài sản bị cáo trộm cắp đã thu giữ và trả lại cho người bị hại, người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường dân sự; đề nghị áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự: Tiêu hủy 01 que thử nước tiểu.

Bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, nhưng đề nghị  HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN XÉT CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện Yên Phong, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Do vậy, đại diện VKSND huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên toà đề nghị HĐXX tuyên bố Tống Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá là 16.117.000 đồng nên hành vi của bị cáo bị truy cứu theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản để chiếm đoạt tài sản, mục đích bán để kiếm tiền phục vụ cho bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an an toàn xã hội trên   địa bàn, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người bị hại, bởi vậy cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong nhân dân.

Bị cáo xuất thân từ nhân dân lao động, tại cơ quan điều tra và trước phiên tòa các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi thực hiện hành  vi  phạm  tội  đã  tự  thú  tại  cơ  quan  điều  tra  về  hành  vi  phạm  tội  ngày  18,19/10/2020. Đây là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm r, s khoản 1 Điều  51 BLHS.

Bị cáo có tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” và trong vụ án này bị cáo “Phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại điểm g, h khoản 1, điều 52 BLHS.

Xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội với thời gian phù hợp nhằm cải tạo, giáo dục riêng bị cáo. Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[3] Về vật chứng: Quá trình làm việc Công an xã Đông Tiến đã thu giữ 06 thanh nhôm cửa dài 03m và 04 thanh nhôm cửa dài 1,5m; cùng có bản rộng 05cm, dày 1,2mm. Ngày 21/10/2020, anh Nguyễn Văn Đ đã tự nguyện giao nộp toàn bộ số tài sản mà bị cáo đã bán cho anh vào các ngày 18,19/10/2020.

Toàn bộ tài sản thu giữ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong đã trả lại số tài sản trên cho Xí nghiệp quản lý vận hành Khu Công nghiệp Yên Phong.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Xí nghiệp quản lý vận hành Khu Công nghiệp Yên Phong đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu giải quyết trách nhiệm dân sự nên không xem xét.

[5] Liên quan trong vụ án:

Đối với anh Nguyễn Văn Đ, chị Nguyễn Thị Th là người mua tài sản trộm cắp của bị cáo vào các ngày 18, 19/10/2020. Nhưng anh Đ, chị Th không biết số tài sản mà H bán là do H phạm tội mà có nên không xử lý đối với anh Đ, chị Th là đúng pháp luật.

Đối với số tiền 2.300.000 đồng anh Đ, chị Th trả cho bị cáo để mua tài sản trộm cắp, anh Đ, chị Th không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tống Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1  Điều 52; Điều 38 BLHS: Xử phạt Tống Văn H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/10/2020.Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (05/2/2021) theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự: Tiêu hủy  01 que thử nước tiểu.

Về  án phí:  Điều  136 BLTTHS;  Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14  ngày  30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2021/HS-ST

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về