TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 13/2021/HS-PT NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Trần Cu Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2020/HS-ST ngày 22 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang.
Bị cáo có kháng cáo:
TRẦN CU Đ, sinh năm 1988 tại Hậu Giang; nơi cư trú: ấp 12, xã B, huyện K, tỉnh S; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị Viễn C và 01 người con sinh năm 2012; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Vào năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 02 năm tù về tội Hiếp dâm, đã chấp hành xong hình phạt vào năm 2011, chấp hành xong bản án về trách nhiệm dân sự vào tháng 03/2017 (Theo lời khai của bị hại).
Bị cáo bị khởi tố ngày 26/8/2020 cho tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn Q – Văn phòng luật sư Nguyễn Trung H thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại không có kháng cáo, không bị Viện kiểm sát kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 02 giờ ngày 01/7/2020, Trần Cu Đ sau khi đi nhậu từ chợ Ngã Bảy thì về nhà vợ ở ấp Đông An 2A, xã Tân Thành, thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang thì nảy sinh ý định tìm tài sản để trộm cắp. Khi về gần đến nhà thì phát hiện bên kho công trình xây dựng cầu đường tuyến lộ 927C cách nhà vợ Đ khoảng 5m, trong kho đèn sáng nhưng cửa kho chỉ khép hờ không khóa. Đ nhìn thấy có người ngủ trùm mền có dây điện thoại đang sạc chỗ đầu nằm. Trần Cu Đ đi lại chỗ người đang trùm mền ngủ dùng tay kéo nhẹ sợi dây sạc điện thoại ra phát hiện điện thoại di động hiệu OPPO A31 cảm ứng màu đen, nên rút dây sạc ra và lấy chiếc điện thoại tắt nguồn đem về nhà vợ cất giấu trong bao đồ cũ ở phía nhà sau rồi lên giường đi ngủ. Đến 03 sáng cùng ngày anh Lý H1 là công nhân công trình xây dựng cầu đường tuyến 927C đang ngủ tại kho giật mình thức dậy phát hiện mất điện thoại OPPO A31 mà anh đang sạc để phía trên đầu nằm, anh tìm kiếm xung quanh nhưng không thấy, nên anh nằm đợi đến 5 giờ sáng cùng ngày đi lại chỗ anh Nguyễn Văn H làm công trình chung với anh Hó đang ngủ ở xà lan dưới bến sông gần kho chỗ anh H1 ngủ, anh H1 nhờ anh Huy gọi vào số điện thoại của Hó nhưng không liên lạc được. Anh H1 và H tìm kiếm xung quanh thì phát hiện có dấu dép lạ trước cửa kho, đi theo dấu vết dép thì phát hiện đôi dép của Đ cách kho khoảng 05m vị trí mũi dép hướng vào nhà, phần sau đôi dép hướng về kho nên nghi ngờ Đ lấy trộm và qua nhà hỏi Đ có lấy trộm điện thoại không thì Đ không thừa nhận. Cùng lúc này có ông Nguyễn Văn Đ và vợ là Nguyễn Thị Mỹ N là chú thiếm vợ của Đ nhà gần đó nghe sự việc đi qua xem và vào nhà tìm kiếm thì phát hiện điện thoại cảm ứng màu đen OPPO A31 cất giấu trong bao đồ cũ để ở nhà sau. Sau đó anh Hó trình báo công an xã Tân Thành. Qua làm việc Đ thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Căn cứ kết luận định giá tài sản số 230/HĐĐGTT-HS ngày 24/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Ngã Bảy kết luận: 01 điện thoại di động hiệu OPPO A31 giá trị sử dụng còn lại 70%, giá thị trường hiện tại còn lại là 3.143.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 35/2020/HS-ST ngày 22 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Tuyên bố: Bị cáo Trần Cu Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Cu Đ 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vào ngày 03/11/2020, bị cáo Trần Cu Đ kháng cáo xin được hưởng án treo với lý do bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang tham gia phiên toà phát biểu quan điểm: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trần Cu Đ kháng cáo. Tuy nhiên, bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới để được xem xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Trần Cu Đ trình bày: Đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo, do hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Trần Cu Đ có đơn kháng cáo, xét các đơn kháng cáo phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Đối với luật sư Nguyễn Văn Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, tại phiên tòa bị cáo cho rằng đã từ chối người bào chữa và đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa, nên căn cứ Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Vào khoảng 02 giờ ngày 01/7/2020, Trần Cu Đ lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của bị hại Lý Hó đã lén lút lấy trộm một điện thoại di động Oppo A31 cảm ứng màu đen, có giá trị là 3.143.000 đồng. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Cu Đ về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo . Lần phạm tội này của bị cáo không thuộc trường hợp phạm tội lần đầu do trước đó bị cáo đã từng bị kết án về tội “Hiếp dâm” nên không đủ điều kiện áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đối với tình tiết phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xét thấy sau khi bị cáo trộm được tài sản thì tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, do đó mặc dù thực tế thiệt hại chưa xảy ra nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành, đã chiếm đoạt được tài sản sau đó mới bị phát hiện. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án, tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để khắc phục lỗi lầm, phấn đấu làm công dân có ích cho gia đình và xã hội mà vẫn xem thường pháp luật, lợi dụng đêm tối lén lúc trộm cắp tài sản của bị hại. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo cũng như nhằm đảm bảo yêu cầu phòng chống tội phạm tại địa phương. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa về việc không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Cu Đ. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Cu Đ phạm tội Trộm cắp tài sản.
Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Trần Cu Đ 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày chấp hành án.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 13/2021/HS-PT
Số hiệu: | 13/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về