TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 130/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2022/TLST-HS ngày 14/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST-HS ngày 17/01/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 97/2022/HSST-QĐ ngày 27/01/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 160/2022/HSST-QĐ ngày 25/02/2022 và Quyết định định hoãn phiên tòa số 323/2022/HSST-QĐ ngày 24/3/2022 đối với bị cáo:
Võ Văn Hồng T (tên gọi khác: Cu M); sinh ngày 20 tháng 08 năm 2002, tại Đồng Nai. Nơi cư trú: A2/344, khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 0/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn Hồng K, sinh năm 1957 (đã chết) và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1966 (còn sống). Bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Chưa có vợ con;
Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 17/11/2020, bị Công an thành phố B xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định số 922/QĐ-XPHC. (chưa chấp hành xong).
Nhân thân:
Ngày 13/11/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 63/QĐ-TA, đã chấp hành xong.
Ngày 21/7/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 tháng tù theo Bản án số 273/2020/HS-ST ngày 21/7/2020, đã chấp hành xong.
Ngày 14/6/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù theo Bản án số 333/2021/HS-ST ngày 14/6/2021, đã chấp hành xong.
Trong vụ án này bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 02/02/2022 và hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.
- Bị hại:
1. Bà Thái Nguyễn Yến N, sinh năm 1992. Địa chỉ: A4/74A, khu phố B1, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
2. Bà Lê Thị Thu L, sinh năm 1973. Địa chỉ: A3/266E, khu phố B2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Người bào chữa cho bị cáo: ông Trần Hữu N - Luật sư thuộc Đoàn luật tỉnh Đồng Nai.
(Bị cáo, Luật sư N - có mặt tại phiên tòa, bị hại bà L - vắng mặt không có lý do, bà N - có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để có tiền tiêu xài, vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 25 tháng 02 năm 2021, Võ Văn Hồng T đi bộ từ nhà (tại địa chỉ A2/344, khu phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai) đến khu vực thuộc khu phố B1, phường T để trộm cắp tài sản. Khi T đi đến nhà chị Thái Nguyễn Yến N (sinh năm 1992) tại địa chỉ số A4/74A thì thấy cửa sau nhà không đóng, T liền đột nhập vào bên trong lấy trộm được 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Prime của chị N đang để trên tủ lạnh trong phòng bếp. Sau đó, T tiếp tục đi đến khu vực thuộc khu phố B2, phường Tân V, phát hiện cửa sổ phòng ngủ nhà chị Lê Thị Thu L (sinh năm 1973) tại địa chỉ số A3/266E đang mở, bên trong có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J7 Pro đang sạc pin, T liền dùng tay luồn qua cửa sổ lấy trộm chiếc điện thoại trên của chị L rồi mang 2 chiếc điện thoại trộm cắp được về nhà cất giấu thì bị bà Nguyễn Thị C (là mẹ của T) phát hiện, bà C khuyên T mang trả lại điện thoại thì T bỏ đi. Qua xác minh, Công an phường T đã đến nhà T để làm rõ sự việc, lúc này bà C đã giao nộp 02 chiếc điện thoại trên cho Công an lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP.B khởi tố, điều tra xử lý.
Vật chứng vụ án gồm:
- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime (số Imei:
35522.80830.65936) do bà C giao nộp, là tài sản của bà Thái Nguyễn Yến N bị trộm cắp nên Cơ quan điều tra đã trả lại bà N.
- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro (số Imei:
35620.20903.14719) do bà C giao nộp, là tài sản của bà L bị trộm cắp nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà L.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 191/KL-HĐĐGTS ngày 04 tháng 5 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự TP.B kết luận: “01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro có trị giá 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng)”.
Tại Kết luận định giá tài sản số 192/KL-HĐĐGTS ngày 04 tháng 5 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự Tp.B kết luận: “01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime có trị giá 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng)”.
Về dân sự: Những người bị hại là bà Thái Nguyễn Yến N và bà Lê Thị Thu L đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu bồi thường.
Tại bản cáo trạng số 38/CT-VKSBH ngày 06/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Võ Văn Hồng T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo T khai nhận hành vi đúng như nội dung Cáo trạng, giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Bị cáo phạm tội trong trường hợp chưa đủ 18 tuổi. Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản đã được trả lại người bị hại và bị hại nên đề nghị xem xét áp dụng cho bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức hình phạt từ: 08 đến 10 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Bị hại đã được triệu tập hợp lệ nhưng bà L vắng mặt không có lý do, bà N có đơn xin xét xử vắng mặt. Tài sản trộm cắp đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu nào khác do đó căn cứ Điều 292 xét xử vắng mặt đối với bị hại.
Đối với bà C là mẹ bị cáo, tại thời điểm xét xử bị cáo đã đủ 18 tuổi, Tài sản trộm cắp đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì. Do đó không cần thiết đưa bà C tham gia tố tụng trong vụ án.
[3]. Về tội danh: Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án cũng như phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 25 tháng 02 năm 2021, Võ Văn Hồng T đã có hành lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime của bà Thái Nguyễn Hồng N tại địa chỉ nhà số A4/74, khu phố B1, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro của bà Lê Thị Thu L tại địa chỉ nhà số A3/266E, khu phố B2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì bị phát hiện. Theo Kết luận định giá tài sản số 191/KL-HĐĐGTS ngày 04 tháng 5 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự TP.B kết luận: “01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Pro có trị giá 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng)” và Kết luận định giá tài sản số 192/KL-HĐĐGTS ngày 04 tháng 5 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự TP.B kết luận: “01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime có trị giá 1.600.000 đồng (Một triệu sáu trăm nghìn đồng)”.
Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Việc truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 38/CT-VKSBH ngày 06/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa là có cơ sở đúng người, đúng tội.
[4]. Xét tính chất, mức độ của hành vi: Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt về hành vi trộm cắp, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, sau khi xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.
[5]. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu;
Ngày 13/11/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 63/QĐ-TA, đã chấp hành xong.
Ngày 21/7/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 tháng tù theo Bản án số 273/2020/HS-ST ngày 21/7/2020, đã chấp hành xong.
Ngày 14/6/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù theo Bản án số 333/2021/HS-ST ngày 14/6/2021, đã chấp hành xong.
[7]. Theo Bản kết luận giám định về độ tuổi của Trung tâm pháp y thì bị cáo 17 tuổi (+/- 06 tháng) kể từ ngày giám định 16/7/2020. Bị cáo phạm tội trong trường hợp chưa đủ 18 tuổi nên cần xem xét áp dụng các quy định liên quan đến người 18 tuổi phạm tội theo quy định tại các điều 91, khoản 1 điều 101 Bộ luật hình sự
[8]. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu nào khác nên không đặt ra xem xét [9]. Xét trình bày của người bào chữa cho bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[10]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Vũ Văn Hồng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 02/02/2022.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 130/2022/HS-ST
Số hiệu: | 130/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về