Bản án về tội trộm cắp tài sản số 129/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 129/2021/HSST NGÀY 24/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện QV, tỉnh BN, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 133/2021/HSST ngày 04 tháng 8 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2021/QĐXXST - HS ngày 13 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện QV, đối với bị cáo:

Phạm Thị D, sinh năm 1991; Giới tính: Nữ; HKTT: Thôn ĐB, xã KT, huyện YT, tỉnh NA; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; Học vấn: 06/12; Con ông Phạm Văn H và con bà Nguyễn Thị Nh; Gia đình có 05 anh, em, bị cáo là con thứ hai; Chồng là Phạm Đình D, sinh năm 1987 và 01 con sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/5/2021 đến ngày 19/5/2021, được thay thế bằng biện pháp “cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.

*. Bị hại: Công ty TNHH KH HÀ NỘI – CHI NHÁNH Trụ sở: Lô A9, Khu Công nghiệp QV 1, xã PL, huyện QV, tỉnh BN. Người đại diện theo pháp luật: Ông Kim HD, Chức vụ: giám đốc Đại diện theo ủy quyền:

Bà Nghiêm Thị N1; Chức vụ; Trưởng phòng hành chính nhân sự.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 30 phút, ngày 13/5/2021, tại công ty KH, lô A9, khu CN QV 1 thuộc thôn Do Nha, xã PL , huyện QV, tỉnh BN, Công an huyện QV phối hợp với bảo vệ công ty KH bắt quả tang Phạm Thị D đang có hành vi trộm cắp 04 (bốn) cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại di động Model A326 của công ty TNHH KH.

Vật chứng thu giữ gồm:

-Thu giữ 01 túi xách màu đen có dòng chữ Love của Nguyễn Thị D bên trong có 04 (bốn) cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại di động Model A326 và 05 (năm) túi nilong chống va đập.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV, Phạm Thị D khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Ngày 27/4/2021, D được nhận vào làm công nhân thời vụ tại công ty KH. D được công ty phân công làm tại tổ sản xuất với nhiệm vụ là kiểm tra màn hình cụm các loại điện thoại. Trong quá trình làm việc D nảy sinh ý định trộm cắp các cụm điện thoại của công ty mang ra ngoài bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Khoảng 09 giờ ngày 12/5/2021, D đến cửa hàng điện thoại của anh Vũ Đức Trinh, sinh năm 1996, HKTT: thôn Phương Cầu, xã PL, huyện QV để sửa điện thoại. D thấy anh Trinh có túi nilong chống va đập nên đã xin anh Trinh 05 túi nilong để chuẩn bị thực hiện hành vi trộm cắp các cụm điện thoại của công ty KH. Đến khoảng 21 giờ 50 phút ngày 13/5/2021, D đang làm việc tại công ty, quan sát thấy không có người quản lý, D lấy 01 (một) cụm điện thoại Model A326 giấu vào cổ tay áo bên trái và 01 (một) cụm điện thoại Model A326 giấu trong tất cổ chân trái rồi đi vào nhà vệ sinh của công ty. Khi vào nhà vệ sinh công ty, D bỏ 02 (hai) cụm thoại Model A326 vừa trộm cắp được cất giấu sang tất cổ chân phải, mục đích khi đi ra, vào cửa từ của công ty không phát hiện được. Sau đó, lợi dụng sơ hở trong giờ nghỉ giữa giờ làm việc, D đi cùng mọi người ra khu cửa từ của công ty để ra ngoài, bảo vệ của công ty có kiểm tra nhưng không phát hiện ra D trộm cắp 02 cụm điện thoại Model A326. D mang 02 (hai) cụm điện thoại vừa trộm cắp được cho vào túi nilong chống va đập và để trong túi xách trong tủ đồ cá nhân của D. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, với hành vi và thủ đoạn như trên D tiếp tục trộm cắp 02 cụm vỏ điện thoại Model A326 của công ty KH. Quá trình trộm cắp của D đã bị tổ bảo vệ của công ty KH phát hiện nên đã phối hợp với Công an huyện QV kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Ngày 14/5/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV nhận được đơn trình báo của chị Nghiêm Thị N1 là đại điện theo ủy quyền của công ty TNHH KH về việc: Trong khoảng từ ngày 10/5/2021 đến ngày 13/5/2021 sau khi kiểm kê, công ty phát hiện bị kẻ gian trộm cắp tổng 15 (mười lăm) cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 30/KL-ĐGTS ngày 14/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện QV kết luận: “Giá trị của 04 cụm vỏ trước, màn hình và pin của điện thoại di động Model: A326 Font, mã hàng GH 97- 26347A là 2.399.920 đồng”.

Trong quá trình điều tra, ngày 14/5/2021 Phạm Thị D đã đầu thú, khai nhận từ ngày 10/5/2021 đến ngày 13/5/2021 với phương thức và thủ đoạn như trên D còn thực hiện 03 lần trộm cắp tài sản của công ty KH, cụ thể:

Lần thứ nhất: Trong khoảng 23 giờ ngày 10/5/2021 đến 05 giờ, ngày 11/5/2021, lợi dụng sơ hở của bảo vệ công ty KH Phạm Thị D đã trộm cắp 03 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 của công ty KH mang về phòng trọ của mình tại thôn Do Nha, xã PL, huyện QV cất giấu - Lần thứ hai: Trong khoảng 23 giờ ngày 11/5/2021 đến 05 giờ, ngày 12/5/2021, lợi dụng sơ hở của bảo vệ công ty KH Phạm Thị D đã trộm cắp 04 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 của công ty KH mang về phòng trọ của mình tại thôn Do Nha, xã PL, huyện QV cất giấu.

- Lần thứ ba: Trong khoảng 23 giờ ngày 12/5/2021 đến 05 giờ, ngày 13/5/2021, lợi dụng sơ hở của bảo vệ công ty KH Phạm Thị D đã trộm cắp 04 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 của công ty KH mang về phòng trọ của mình tại thôn Do Nha, xã PL, huyện QV cất giấu.

Đến khoảng 19 giờ, ngày 13/5/2021, D mang 11 (mười một) cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 trộm cắp được từ ngày 10/5/2021 đến ngày 13/5/2021 đến quán điện thoại tại thôn Do Nha, xã PL, huyện QV của anh Lê Xuân Trường, sinh năm 1996, HKTT: thôn Liễn Hạ, xã Đại Xuân, huyện QV, tỉnh BN để bán 11 cụm điện thoại trên. Do chưa biết giá các cụm điện thoại trên nên anh Trường bảo với D để lại để kiểm tra thêm nên D nhận lời đồng ý.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 31/KL-ĐGTS ngày 14/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện QV kết luận: “Giá trị của 11 cụm vỏ trước, màn hình và pin của điện thoại di động Model: A326 Font, mã hàng GH 97- 26347A là 6.599.780 đồng”.

*Vật chứng thu giữ:

Ngày 14/5/2021, sau khi biết số cụm điện thoại D để lại quán điện thoại của mình là do phạm tội mà có, anh Lê Xuân Trường đã giao nộp 11 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV.

Ngày 14/5/2021, anh Nguyễn Viết Thắng, sinh năm 1985, HKTT: thôn Xuân Thượng, xã Xuân Phú, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang là nhân viên phụ trách an ninh của công ty KH giao nộp 01 USB Kington 08 Gh có chứa hình ảnh trộm cắp của D.

*Xử lý vật chứng:

Đối với 15 (mười lăm) cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 quá trình điều tra xác định là tài sản của công ty TNHH KH. Ngày 05/6/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV đã trả lại cho chị Nghiêm Thị N1 là người đại diện theo ủy quyền của công ty TNHH KH.

Đối với tài sản, đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội, Viện kiểm sát nhân dân huyện QV đã ra quyết định chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện QV để bảo quản và xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/6/2021, trong quá trình điều tra, D đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV số tiền 5.000.000 đồng để khắc phục hậu quả do hành vi của D gây ra.

Ngày 05/6/2021, Chị Nghiêm Thị Anh đã đại diện công ty TNHH KH nhận số tiền bồi thường 5.000.000 đồng. Chị Anh không có yêu cầu gì thêm.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện QV, bị can Phạm Thị D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên.

Với nội D trên, tại bản Cáo trạng số 100/CT-VKSQV ngày 02/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện QV truy tố Phạm Thị D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện QV phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ được và toàn bộ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b,i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Phạm Thi D từ 07 tháng đến 10 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày chấp hành quyết định thi hành án nhưng được trừ số ngày tạm giữ từ ngày 14/5/20212 đến ngày 19/5/2021.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 01 túi xách màu đen có dòng chữ LOVE; 05 túi nilong chống va đập.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội không tham gia tranh luận đối với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Hồi 23 giờ 30 phút, ngày 13/5/2021, tại công ty TNHH KH, lô A9, khu CN QV 1 thuộc thôn Do Nha, xã PL , huyện QV, tỉnh BN, Công an huyện QV phối hợp với bảo vệ công ty KH bắt quả tang Phạm Thị D đang có hành vi trộm cắp 04 (bốn) cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại di động Model A326 của công ty KH trị giá 2.399.920 đồng (Hai triệu, ba trăm chín mươi chín nghìn, chín trăm hai mươi đồng). Trong thời gian từ 10/5/2021 đến 13/5/2021 Phạm Thị D đã thực hiện 03 lần trộm cắp cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 của công ty TNHH KH cụ thể:

- Lần thứ nhất: Trong khoảng 23 giờ ngày 10/5/2021 đến 05 giờ, ngày 11/5/2021, Phạm Thị D đã trộm cắp 03 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 của công ty KH trị giá 1.799.940 đồng (Một triệu bảy trăm chín mươi chín nghìn chín trăm bốn mươi đồng)

- Lần thứ hai: Trong khoảng 23 giờ ngày 11/5/2021 đến 05 giờ, ngày 12/5/2021, Phạm Thị D đã trộm cắp 04 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 của công ty KH trị giá 2.399.920 đồng (Hai triệu ba trăm chín mươi chín nghìn chín trăm hai mươi đồng).

- Lần thứ ba: Trong khoảng 23 giờ ngày 12/5/2021 đến 05 giờ, ngày 13/5/2021, lợi dụng sơ hở của bảo vệ công ty Phạm Thị D đã trộm cắp 04 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 của công ty KH. Giá trị tài sản 03 lần trộm cắp của D là: 6.599.780 đồng trị giá 2.399.920 đồng (Hai triệu ba trăm chín mươi chín nghìn chín trăm hai mươi đồng).

Tổng giá trị tài sản D 04 lần trộm cắp là: 8.999.700 đồng (Tám triệu chín trăm chín mươi chín nghìn bẩy trăm đồng).

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ được cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận Phạm Thị D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của doanh nghiệp, tổ chức được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người trưởng thành nhưng không chịu lao động mà muốn được hưởng lợi từ thành quả lao động của người khác để thỏa mãn nhu cầu của mình. Hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, vì mục đích vụ lợi. Do vậy, cần thiết phải xử bị cáo mức án nghiêm tương xứng với hành vi của bị cáo.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tới cơ quan Công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho Công ty TNHH KH 5.000.000đ để khắc phục hậu quả và được đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH KH có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho D ở mức thấp nhất nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b,i,s khoản 1 và 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã 04 lần thực hiện hành vi phạm tội, trong đó có 03 lần trộm cắp mỗi lần đều trên 2.000.000đ nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng nhưng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, bản thân là lao động thời vụ và đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Bị cáo chiếm đoạt tài sản nhiều lần nhưng tổng tài sản có giá trị không cao nên khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện sửa chữa và sớm trở về nuôi dậy con nhỏ. Tuy nhiên, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tính giáo dục bị cáo nói riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là công nhân thời vụ, công việc và thu nhập không ổn định lại đang nuôi con nhỏ nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo là phù hợp.

- Trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được trả lại toàn bộ cho Công ty TNHH KH và bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho Công ty là 5.000.000đ. Phía Công ty không đề nghị bị cáo bồi thường thêm nên không đề cập giải quyết.

Về vật chứng: Đối với túi xách có in hình chữ LOVE, bị cáo dùng vào việc phạm tội và 05 túi chống va đập giá trị thấp nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với anh Lê Xuân Trường là người cầm 11 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326. Anh Trường không biết 11 cụm vỏ trước, màn hình và pin điện thoại Model A326 do D trộm cắp mà có. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV không xử lý đối với anh Trường là phù hợp.

Đối với Đối với anh Vũ Đức Trinh là người cho D 05 túi nilong chống va đập. Anh Trinh không biết việc D xin 05 túi nilong chống va đập để sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện QV không xử lý đối với anh Trinh là phù hợp.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị D phạm tội “Trộm cắp tài sản".

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b,i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phạm Thị D 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày chấp hành quyết định thi hành án và được trừ đi số ngày tạm giữ từ ngày 14/5/2021 đến ngày 19/5/2021.

Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 01 túi xách màu đen có dòng chữ LOVE; 05 túi nilong chống va đập.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 04/8/2021 giữa cơ quan Công an huyện QV với Chi cục thi hành án dân sự huyện QV).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Phạm Thị D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 129/2021/HSST

Số hiệu:129/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về