Bản án về tội trộm cắp tài sản số 128/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 128/2024/HS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 107/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2024/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 01 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Đức T, sinh năm 1984 tại T; nơi thường trú: 1P Lô 555 CL 13 MBQH A, phường Đ, thành phố T, tỉnh T; nơi ở trước khi bị bắt: Ngõ A T, phường L, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức T1 (đã chết) và bà Hoàng Thị T2 (đã chết); tiền sự: không; tiền án:

- Ngày 17/11/2004, tại bản án số 164/HSST, Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành phần dân sự của bản án này;

- Ngày 23/4/2008, tại bản án số 79/2008/HSST, Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành phần dân sự của bản án này;

- Ngày 15/11/2011, tại bản án số 284/2011/HSST, Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành phần án phí của bản án này;

- Ngày 16/12/2014, tại bản án số 332/2014/HSST, Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành phần án phí của bản án này.

Nhân thân: ngày 14/11/2018, tại bản án số 28/2018/HS-ST, Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/02/2019.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023 chuyển tạm giam tại nhà Tạm giữ Công an thành phố T, tỉnh T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Trịnh Thế T3, sinh năm 1991 tại T; nơi thường trú: số nhà G Q, phường Đ, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Ngọc T4 và bà Trần Thị L; tiền án, tiền sự: không; nhân thân:

- Ngày 28/10/2011, tại bản án số 35/2011/HSST, Tòa án nhân dân huyện Đông Sơn, tỉnh T xử phạt 05 năm tù về tội “ Cướp giật tài sản”;

- Ngày 15/09/2023, tại bản án số 339/2023/HS-ST, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 42 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/9/2023 đến ngày 07/10/2023 chuyển tạm giam tại nhà Tạm giữ Công an thành phố T, tỉnh T. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

1. Anh Đinh Quang T5, sinh năm 2003.

Nơi thường trú: Rộc Răm, Xuân P, N, T.

Nơi tạm trú: Số nhà A L, phường Q, thành phố T, tỉnh T. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Chị Lê Thị Á, sinh năm 2003.

Nơi thường trú: Thôn H, xã X, huyện T, tỉnh T.

Nơi tạm trú: Ngõ I, phố T, phường Q, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Anh T6, sinh ngày 24/12/2006.

Nơi thường trú: Thôn Đ, xã C, huyện N, tỉnh T.

Nơi tạm trú: 12/199 N, phường Đ, thành phố T. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của anh T6: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1982. Nơi thường trú: Thôn Đ, xã C, huyện N, tỉnh T. Vắng mặt.

4. Chị Lưu Phương M1, sinh năm 2002.

Nơi thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh T.

Nơi tạm trú: 132 N, phường Q, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.

5. Anh Lê Văn M2, sinh năm 1996.

Nơi thường trú: Tổ dân phố K, phường Q, thành phố S, tỉnh T. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Văn D, sinh năm 1972.

Nơi thường trú: Thôn H, xã X, huyện T, tỉnh T. Vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1982.

Nơi thường trú: Thôn Đ, xã C, huyện N, tỉnh T. Vắng mặt.

3. Ông Lưu Văn C, sinh năm 1963.

Nơi thường trú: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh T. Vắng mặt.

4. Anh Lê Khắc M3, sinh ngày 30/7/2007.

Người đại diện hợp pháp của anh M3: Bà Nguyễn Thị T7, sinh năm 1981 (mẹ đẻ).

Cùng nơi thường trú: 09/139 V, phố T, phường Q, thành phố T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mục đích chiếm đoạt tài sản nên Nguyễn Đức T rủ Trịnh Thế T3 đi trộm cắp tài sản, T3 đồng ý. Trước khi đi T chuẩn bị vam phá khóa và sử dụng xe máy Dream màu nâu (không gắn biển kiểm soát) chở T3 đến các khu nhà trọ trên địa bàn thành phố T. Khi phát hiện sơ hở của chủ sở hữu, T ở ngoài cảnh giới, T3 trực tiếp vào nơi để tài sản dùng vam phá khóa để bẻ khóa xe máy. Trong khoảng thời gian từ ngày 01/9/2023 đến 27/9/2023, Nguyễn Đức T và Trịnh Thế T3 đã thực hiện 05 vụ trộm cắp xe máy trên địa bàn thành phố T. Cụ thể:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 14 giờ 00 ngày 01/09/2023, T chở T3 đi đến khu nhà trọ ở A N, phường Q, thành phố T, tỉnh T. Tại đây, T ở ngoài cảnh giới cho T3 đi vào, dùng vam phá khóa chiếc xe Wave Alpha màu xanh-đen-bạc, biển kiểm soát 36B2-xxxxxx của chị Lưu Phương M1, sinh năm 2002, thường trú tại: L, xã T, huyện H, tỉnh T đang dựng dưới gầm cầu thang. Sau đó, cả hai mang chiếc xe vừa trộm cắp được đi tìm chỗ cất giấu. Khi đi đến bờ sông N ở chân cầu B, xã T, huyện T, tỉnh T, T và T3 dừng lại mở cốp xe kiểm tra. Cả hai giữ lại đăng ký xe biển kiểm soát 36B2-xxxxxx mang tên Lưu Văn C bỏ vào cốp xe còn các đồ dùng khác thì vứt lại ở bờ sông. Sau đó, T mang chiếc xe đến gặp Nguyễn Thị Lan A (là cháu của T), sinh năm 1999, ở thôn D, xã T, huyện T, tỉnh T và nói cho gửi nhờ vài ngày sẽ quay lại lấy. Vài ngày sau, T đưa cho T3 1.000.000 đồng nói là tiền do bán xe mà có. Số tiền này T3 đã chi tiêu cá nhân hết.

- Vụ thứ hai: Khoảng 03 giờ ngày 02/09/2023, T chở T3 đi đến trước khu nhà trọ ở số nhà A L, phường Q, thành phố T. Thấy cổng nhà không khoá, T ở ngoài cảnh giới cho T3 đi vào dùng vam phá khóa chiếc xe máy Exciter, màu đen biển kiểm soát 36B6-xxxxxx của anh Đinh Quang T5, sinh năm 2003, thường trú tại: thôn R, xã X, huyện N, tỉnh T. Sau đó cả hai đem tài sản vừa trộm cắp về nhà trọ của T ở ngõ A T, phường L, thành phố T. Đến sáng cùng ngày, T tháo bỏ biển kiểm soát 36B6-xxxxxx vứt xuống sông L ở khu vực cầu L thuộc phường Đ, thành phố T rồi điều khiển chiếc xe đến gửi cho Nguyễn Trọng H1 (là cháu của T), sinh năm 2007, ở 0 đường N, phường Đ, thành phố T, tỉnh T.

- Vụ thứ ba: Khoảng 12 giờ 30 ngày 07/09/2023, T chở T3 đi qua số nhà A đường A, phường Q, thành phố T, tỉnh T phát hiện chiếc xe máy Wave Alpha màu xanh đen bạc biển kiểm soát 36B4- xxxxxx, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa, chủ xe là anh Lê Văn M2, sinh năm 1996 trú tại tổ dân phố K, phường Q, thành phố S, tỉnh T. Quan sát xung quanh không thấy ai, T3 đi lại mở khóa điện trộm cắp xe rồi nhanh chóng tẩu thoát. T gọi điện thoại nói T3 tháo bỏ biển kiểm soát 36B4-xxxxxx để lại nhà trọ của mình rồi đi chiếc xe vừa trộm cắp đến thôn D, xã T, huyện T gửi cho Nguyễn Thị Lan A. Do khi đến không gặp được Lan A nên T3 để chiếc xe lại sân rồi quay về thành phố T. Đến tối cùng ngày, thấy chiếc xe ở sân nhà mình không rõ của ai, chị Lan A gọi điện hỏi thì T trả lời là của mình gửi lại, hẹn vài ngày nữa sẽ đến lấy cùng chiếc xe Wave Alpha, màu xanh-đen-bạc, biển kiểm soát 36B2-xxxxxx. Chị Lan A đồng ý. Đối với biển kiểm soát 36B4-xxxxxx, T mang ra sông L ở khu vực cầu L, phường Đ, thành phố T vứt bỏ.

- Vụ thứ tư: Khoảng 03 giờ ngày 27/09/2023, T chở T3 đi đến ngõ I Q, phường Q, thành phố T, phát hiện một khu trọ không khóa cửa cổng, bên trong sân có nhiều xe máy không người trông coi. T3 đi vào trong dùng vam phá khóa trộm cắp chiếc xe máy Wave Alpha màu đỏ-đen biển kiểm soát 36L8-xxxxxx của chị Lê Thị Á, sinh năm 2003, thường trú tại thôn H, xã X, huyện T, tỉnh T rồi đem chiếc xe về nhà trọ của T cất giấu, tháo biển kiểm soát. Đến khoảng 09 giờ ngày 28/9/3023, T3 rủ Nguyễn Văn T8, sinh năm 1995, ở A T, phường N, thành phố T cùng đi với T3 đến gặp Dương Tất T9 (là em rể T3), sinh năm 1990 ở 2 Q, phường Đ, thành phố T nhờ giữ hộ chiếc xe này.

- Vụ thứ năm: Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 27/09/2023, sau khi trộm cắp được chiếc xe của chị Lê Thị Á tại ngõ I Q, phường Q, thành phố T, T và T3 tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Khi đi qua khu trọ ở địa chỉ 1 N, phường Đ, thành phố T thấy cổng không khóa, có nhiều xe máy để ở ngoài sân không người trông coi. T và T3 đi vào dắt chiếc xe Wave Alpha màu đen – bạc biển kiểm soát 36B8-xxxxxx của anh Nguyễn Anh T6 sinh năm 2006 ở thôn Đ, xã C, huyện N, tỉnh T đưa ra ngoài, sau đó đưa xe về nhà trọ của T cất giấu. T tháo biển kiểm soát 36B8-xxxxxx đem ra cầu L, phường Đ, thành phố T vứt xuống sông L và đi mua ổ khoá điện mới thay vào chiếc xe. Tiếp đó T điều khiển chiếc xe đến gặp Lê Khắc M3, sinh năm 2007, ở 0 V, phố T, phường Q, thành phố T nói là của mình, không sử dụng nên bán lấy số tiền 9.000.000 đồng. M3 tin tưởng nên đồng ý mua và đưa trước cho T, hẹn khi nào nhận đầy đủ giấy tờ sẽ thanh toán hết số tiền còn lại. Số tiền này T chia cho T3 một nửa là 1.475.000 đồng, các bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 112/KL-HĐĐGTS ngày 04/10/2023, Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố T kết luận 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150cc, màu đen biển kiểm soát 36B6-xxxxxx có giá trị 10.000.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 113/KL-HĐĐGTS ngày 04/10/2023, Hội đồng định giá tài sản UBND thành phố T kết luận:

+ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B2-xxxxxx có giá trị 6.000.000 đồng;

+ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B4-xxxxxx có giá trị 7.000.000 đồng;

+ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đỏ đen, biển kiểm soát 36L8-xxxx có giá trị 4.000.000 đồng;

+ 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đen bạc, biển kiểm soát 36B8-xxxxxx có giá trị 12.000.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản Nguyễn Đức T và Trịnh Thế T3 trộm cắp được là 39.000.000 đồng.

Vt chng và trách nhim dân s:

Cơ quan điều tra đã thu giữ của chị Nguyễn Thị Lan A 01 xe máy Wave Alpha màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B2-xxxxxx và 01 xe máy Wave Alpha màu xanh đen bạc, không gắn biển kiểm soát. Thu giữ từ anh Nguyễn Trọng H1 01 xe máy Exciter màu đen, không gắn biển kiểm soát. Thu giữ từ anh Dương Tất T9 01 xe máy Wave Alpha màu đỏ đen, không gắn biển kiểm soát. Thu giữ từ anh Lê Khắc M3 01 xe máy Wave Alpha màu đen bạc, không gắn biển kiểm soát.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, xác định chủ sở hữu hợp pháp của 05 chiếc xe máy bị trộm cắp và ra quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản cho ông Lưu Văn C, sinh năm 1963, ở thôn L, xã T, huyện H, tỉnh T xe máy Honda Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B2-xxxxxx; anh Lê Văn M2, sinh năm 1996, ở tổ dân phố K, phường Q, thành phố S, tỉnh T xe máy Honda Wave, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B4-xxxxxx; anh Đinh Quang T5, sinh năm 2003, ở thôn R, xã X, huyện N, tỉnh T xe máy Yamaha Exciter 150cc, màu đen biển kiểm soát 36B6-xxxxxx; ông Lê Văn D, sinh năm 1972, ở thôn H, xã X, huyện T, tỉnh T xe máy Honda Wave Alpha, màu đỏ đen, biển kiểm soát 36L8-xxxx và ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1982, ở thôn Đ, xã C, huyện N, tỉnh T xe máy Honda Wave Alpha, màu đen bạc, biển kiểm soát 36B8- xxxxxx. Những người này đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì.

Thu giữ từ Nguyễn Đức T 01 xe máy nhãn hiệu Dream màu nâu, biển kiểm soát 36F6-xxxx, là phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện trộm cắp tài sản. T khai chiếc xe này mua lại của một nam thanh niên (không biết tên tuổi, địa chỉ). Qua xác minh không xác định được chủ sở hữu, đồng thời xác định chiếc xe không phải là vật chứng của vụ án khác nên chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T chờ xử lý theo quy định.

Đối với các biển kiểm soát 36B6-xxxxxx, 36B4-xxxxxx, 36B8-xxxxxx và bộ V phá khóa, T khai đã vứt xuống sông L ở chân cầu L, thuộc địa phận phường Đ, thành phố T. Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: các bị hại là chị Lưu Phương M1, anh Đinh Quang T5, anh Lê Văn M2, chị Lê Thị Á và anh Nguyễn Anh T6 không có yêu cầu, đề nghị gì. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Lê Khắc M3 không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường cho anh số tiền 2.950.000 đồng.

Đối với Nguyễn Thị Lan A, Nguyễn Trọng H1, Dương Tất T9, do có quan hệ gia đình, tin tưởng T đã nhận giữ hộ xe mà không biết đây là tài sản do trộm cắp được mà có nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Lê Khắc M3, khi mua xe không biết chiếc xe do T trộm cắp được, đã đồng ý mua xe nên không có căn cứ để xử lý.

Ngày 28/9/2023, Nguyễn Đức T và Trịnh Thế T3 đã đến cơ quan Công an đầu thú.

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 47/CTr-VKSTPTH ngày 20/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức Thành về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; Trịnh Thế T3 về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức T; căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trịnh Thế T3 để tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T, Trịnh Thế Trọng phạm t “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị xử phạt bị cáo T từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 28/9/2023; đề nghị xử phạt bị cáo T3 từ 24 tháng tù đến 30 tháng tù, tổng hợp hình phạt với 42 tháng tù của bản án số 339/2023/HS-ST ngày 15/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 28/9/2023.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu, nộp ngân sách nhà nước phương tiện phạm tội là một xe máy nhãn hiệu FANLIM, màu sơn nâu, biển kiểm soát 36F6 – xxxx.

Về phần trách nhiệm dân sự: Tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã được trả lại cho bị hại, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung truy tố của cáo trạng và không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo T3 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo T không trình bày lợi nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tố tụng: Người bị hại là anh Đinh Quang T5, anh Lê Văn M2 có đơn xin xét xử vắng mặt, những người bị hại còn lại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Xét thấy lời khai của bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã đầy đủ trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, tại phiên toà Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt đối với các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[3]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức T, Trịnh Thế T3 khai nhận:

Do có mục đích chiếm đoạt tài sản nên bị cáo Nguyễn Đức T và bị cáo Trịnh Thế T3 đã chuẩn bị sẵn các phương tiện, đi dọc các tuyến đường trên địa bàn thành phố T để quan sát và lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu nhằm chiếm đoạt tài sản. Từ ngày 01/9/2023 đến 27/9/2023, Nguyễn Đức T và Trịnh Thế T3 đã thực hiện 05 vụ trộm cắp xe máy gồm:

-Vụ thứ nhất: Khoảng 14 giờ 00 ngày 01/09/2023, tại khu nhà trọ ở A N, phường Q, thành phố T, bị cáo T và bị cáo T3 đã chiếm đoạt được chiếc xe Wave Alpha màu xanh-đen-bạc, biển kiểm soát 36B2-xxxxxx của chị Lưu Phương M1 trị giá 6.000.000 đồng.

- Vụ thứ hai: Khoảng 03 giờ ngày 02/09/2023, tại khu nhà trọ ở số nhà A L, phường Q, thành phố T, bị cáo T và bị cáo T3 chiếm đoạt được chiếc xe máy Exciter màu đen biển kiểm soát 36B6-xxxxxx của anh Đinh Quang T5, trị giá 10.000.000 đồng.

- Vụ thứ ba: Khoảng 12 giờ 30 ngày 07/09/2023, tại số nhà A đường A, phường Q, thành phố T, các bị cáo chiếm đoạt được chiếc xe máy Wave Alpha màu xanh đen bạc biển kiểm soát 36B4- xxxxxx của anh Lê Văn M2, trị giá 7.000.000 đồng.

- Vụ thứ tư: Khoảng 03 giờ ngày 27/09/2023, tại ngõ I Q, phường Q, thành phố T, các bị cáo trộm cắp chiếc xe máy Wave Alpha màu đỏ-đen biển kiểm soát 36L8-xxxxxx của chị Lê Thị Á, trị giá 4.000.000 đồng.

- Vụ thứ năm: Khoảng 04 giờ 30 phút ngày 27/09/2023, sau khi trộm cắp được chiếc xe của chị Lê Thị Á, các bị cáo tiếp tục đi qua khu trọ ở địa chỉ 1 N, phường Đ, thành phố T, T và T3 đã trộm cắp chiếc xe Wave Alpha màu đen – bạc biển kiểm soát 36B8-xxxxxx của anh Nguyễn Anh T6 trị giá 12.000.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản các bị cáo đã chiếm đoạt được là 39.000.000 đồng.

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Đối với bị cáo T: tại bản án số 164/HSST ngày 17/11/2004, Toà án nhân dân thành phố T xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tại bản án số 79/2008/HSST, ngày 23/4/2008, bị Toà án nhân dân thành phố T xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành phần dân sự của hai bản án này; tại bản án số 284/2011/HSST, ngày 15/11/2011, bị Toà án nhân dân thành phố T xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tại bản án số 332/2014/HSST, ngày 16/12/2014, bị cáo bị Toà án nhân dân thành phố T xử phạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành phần án phí của hai bản án này. Như vậy bị cáo đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại thực hiện hành phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo phải chịu tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm”.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đức T có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; hành vi nêu trên của bị cáo Trịnh Thế T3 có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản ", tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố T; các bị cáo đã lợi dụng sơ hở của người bị hại trong quản lý tài sản để lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện các bị cáo là người rất liều lĩnh và táo bạo, coi thường pháp luật cho nên hành vi của các bị cáo phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Trong một khoảng thời gian ngắn từ ngày 01/9/2023 đến ngày 27/9/2023, các bị cáo đã 05 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vì vậy các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội hai lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, đã bị Toà án xét xử rất nhiều lần nhưng các bị cáo không lấy đây làm bài học để rèn luyện bản thân mà sau khi chấp hành hình phạt tù xong các bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện các bị cáo là người chưa thực sự ăn năn hối cải. Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo đã đến cơ quan công an để đầu thú. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể cho từng người. Tuy nhiên bị cáo T là người khởi xướng, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội nên giữ vai trò chính trong vụ án; bị cáo T3 là đồng phạm, thực hành tích cực trong việc thực hiện hành vi phạm tội nên có vai trò thấp hơn bị cáo T. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 58 của Bộ luật Hình sự để xem xét, cân nhắc mức hình phạt cho phù hợp với từng bị cáo.

Ngày 15/09/2023, tại bản án số 339/2023/HS-ST, bị cáo T3 bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt 42 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150cc, màu đen biển kiểm soát 36B6-xxxxxx; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B2-xxxxxx; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, biển kiểm soát 36B4-xxxxxx; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đỏ đen, biển kiểm soát 36L8-xxxx; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu đen bạc, biển kiểm soát 36B8-xxxxxx đã được trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền 2.950.000 đồng anh Lê Khắc M3 mua chiếc xe Wave Alpha màu đen – bạc biển kiểm soát 36B8-xxxxxx, anh M3 không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền này nên Hội đồng xét xử không xem xét. Số tiền 1.000.000 đồng bị cáo T đưa cho bị cáo T3 và nói là tiền bán xe 36B2 – xxxxxx nhưng chiếc xe này thực tiế T gửi tại nhà chị Nguyễn Thị Lan A. Tại phiên toà bị cáo T không yêu cầu bị cáo T3 phải trả lại cho bị cáo số tiền này.

[7]. Xử lý vật chứng: xe máy nhãn hiệu Dream màu nâu, biển kiểm soát 36F6-xxxx, thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T là phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện trộm cắp tài sản. T khai chiếc xe này mua lại của một nam thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ. Qua xác minh không xác định được chủ sở hữu, đồng thời xác định chiếc xe không phải là vật chứng của vụ án khác vì vậy căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu nộp ngân sách nhà nước chiếc xe máy này.

Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T.

[8]. Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 6; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Đức T;

Căn cứ khoản 1 Điều 173, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58, khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trịnh Thế T3;

Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức T, Trịnh Thế Trọng phạm t “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T 42 (bốn hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 28/9/2023.

Xử phạt: Bị cáo Trịnh Thế T3 27 (hai bảy) tháng tù, tổng hợp với 42 (bốn hai) tháng tù của bản án số 339/2023/HS-ST ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 (năm) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 28/9/2023.

- Xử lý vật chứng: Tịch thu nôp ngân sách nhà nước xe máy nhãn hiệu FANLIM,loại xe Dream, màu nâu, biển kiểm soát 36F6-xxxx, số khung: NJ 100200070381, số máy: LC 152FMG 1A00433263.

Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, theo biên bản giao nhận vật chứng số 66/2024/THA ngày 21/12/2023 giữa Công an thành phố T với Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 128/2024/HS-ST

Số hiệu:128/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về