TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 128/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 123/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2022/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn H; sinh năm 1963 tại tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: số 02/01/49 đường T, phường Tr, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: lớp 05/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị H; tiền án: không; tiền sự: ngày 10-10-2021, Công an phường Lộc Hòa thành phố N xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền về hành vi “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: ngày 12-02-1982, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 13 năm tù về tội “Cướp tài sản của công dân”, ngày 24-6-2015, Công an phường Ngô Quyền xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27-4-2022, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 30-4-2022; có mặt.
Bị hại: Chị Trần Thị Vân A, sinh năm 2003; nơi cư trú: số 23/659 Tr, phường H, thành phố N, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14-4-2022, Nguyễn Văn H đi bộ lang thang mục đích tìm tài sản sở hở để trộm cắp. Khi đi đến khu vực trước cửa nhà hàng Lẩu Vuông, địa chỉ: 141 đường L phường V thành phố N, Hùng phát hiện 01 chiếc xe đạp mini màu xanh- trắng, khung xe có dán đề can màu đen có chữ VENTANA (là tài sản của chị Trần Thị Vân A) đang dựng trên vỉa hè công viên Vị Xuyên (đối diện nhà hàng Lẩu Vuông) xe không khóa, không có người trông coi. Hùng đi bộ đến gần chiếc xe đạp tay trái cầm vào tay lái bên trái xe, tay phải cầm vào yên xe, chân phải gạt chân chống của xe và dắt lùi xuống lòng đường Lê Hồng P. Lúc này, ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1952; trú tại phường Vị Hoàng thành phố N phát hiện nên đã tri hô và đuổi theo. Thấy vậy Hùng ngồi lên xe đạp xe bỏ chạy về phía đường Hùng Vương thành phố N. Khi Hùng đi đến trước cửa số nhà 187 đường Lê Hồng P phường V thành phố N thì bị ông Điền cùng tổ công tác của Công an phường Vị Hoàng đuổi kịp bắt giữ.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tạm cho Hùng về chờ xử lý nhưng Hùng trốn khỏi địa phương nên ngày 23-4-2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã ra Quyết định truy nã số 06 đối với Hùng. Ngày 27-4-2022, Hùng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đầu thú.
Kết luận định giá tài sản số 17/KL-HĐĐGTS ngày 18-4-2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố N kết luận: Vật chứng của vụ án là chiếc xe đạp mini màu xanh- trắng, khung xe có dán chữ Ventana Hùng đã trộm cắp có trị giá 200.000 đồng. Sau khi định giá, cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Trần Thị Vân A chiếc xe đạp trên, chị Vân A nhận lại tài sản và không có đề nghị gì khác.
Bản Cáo trạng số 128/CT-VKS ngày 31 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn H khai: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14-4- 2022, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Trần Thị Vân A chiếc chiếc xe đạp mini màu xanh - trắng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn H theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Văn H, lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án; đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 14-4-2022, tại khu vực vỉa hè đối diện nhà hàng Lẩu Vuông, số 141 đường Lê Hồng P phường Vị Hoàng thành phố N tỉnh Nam Định, Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Trần Thị Vân A chiếc xe đạp mini màu xanh - trắng có trị giá 200.000 đồng. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý; bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản chưa được xóa tiền sự. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã một lần bị kết án (đã được xóa án tích) và một lần bị xử phạt vi phạm hành chính (đã được xóa tiền sự). Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vấn đề dân sự: Bị hại chị Trần Thị Vân A đã nhận lại tài sản và không đề nghị giải quyết vấn đề bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 27-4-2022.
2. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại là chị Trần Thị Vân A được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo Nguyễn Văn H có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 128/2022/HS-ST
Số hiệu: | 128/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về