Bản án về tội trộm cắp tài sản số 127/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 127/2023/HS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 112/2023/HSST ngày 27 tháng 10 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2023/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo: Vồ Thị T, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 26 tháng 12 năm 1987 tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm B, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Bá D (đã chết) và bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1964; Chồng: Đinh Hồng T2, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình; con: Có 02 con Lớn sinh năm 2021 và nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, Hiện có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Hoàng Văn c, sinh năm: 1991, Vắng mặt.

Nơi cư trú: Xóm B, xà L, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

Người tham gia tố tụng khác: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau: Khoảng 19 giờ 35 phút ngày 30/8/2023 Võ Thị T đi từ nhà của mẹ ruột là bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1964, tại xóm B, xã L, huyện Y đến sân vận động X, xã L, huyện Y để xem các cháu thiếu nhi tập văn nghệ. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi đang đứng trên sân khấu của sân vận động, Võ Thị T nhìn thấy điện thoại nhãn hiệu Iphone 12, màu vàng gold của anh Hoàng Văn C, sinh năm 1991, trú cùng xóm đặt trên chiếc loa kéo ở trên yên xe mô tô đang dựng cạnh sân khấu để chuẩn bị phát nhạc cho các cháu thiếu nhi, thì T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại về để sử dụng. Lúc này, anh C đang ở sân vận động hỗ trợ các thầy giáo tập văn nghệ cho các cháu thiếu nhi. Võ Thị T đi lại gần loa kéo, lấy trộm chiếc điện thoại di động này, cầm giấu ở tay phải rồi tiếp tục ngồi xem các cháu thiếu nhi tập Văn nghệ. Khoảng 10 phút sau, Võ Thị T cầm chiếc điện thoại vừa trộm cắp được đi về nhà mẹ ruột rồi tắt nguồn điện thoại di động, tháo và vứt thẻ sim, cất giấu chiếc điện thoại di động trên ở trong chiếc tủ đựng đồ đặt trong nhà tám. Lúc sau, anh Hoàng Văn C đi lại khu vực sân khấu lấy điện thoại phát nhạc thì phát hiện điện thoại đã bị mất.

Ngày 31/8/2023 anh Hoàng Văn C làm đơn trình báo việc bị mất tài sản đến Công an xã L.

Ngày 1/9/2023 Võ Thị T đến Công an xã L xin đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản và giao nộp chiếc điện thoại nêu trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 35/KL-HĐĐGTS ngày 8/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận:

- 01 (một) điện thoại nhãn hiệu Iphone 12 ProMax 128GB, màu vàng gold, s hat O Imeii: 35973519334120xx, số I: 3597351932115xx, bên trong không chứa thẻ sim, đã qua sử dụng (điện thoại được mua mới từ tháng 3/2022 đang sử dụng bình thường), thời điểm ngày 30/8/2023 có giá trị 12.500.000 đồng (mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Võ Thị T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng và xử lý vật chứng vụ án:

* Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng:

Thu giữ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 ProMax 128GB, màu vàng gold, bên trong không chứa thẻ sim, đã qua sử dụng do Võ Thị T giao nộp. Hiện đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Hoàng Văn C.

*Về phần dân sự: Bị hại Hoàng Văn C yêu cầu Võ Thị T bồi thường số tiền 70.000 đồng (bảy mươi nghìn đồng) để làm lại chiếc sim mà C bị mất và Võ Thị T đã đền bù xong.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Hoàng Văn C đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và đã nhận khoản tiền thiệt hại do bị cáo tự nguyện bồi thường nên không có yêu cầu bồi thường thiệt hại về dân sự.

Bản cáo trạng số 121/ CT-VKS-YT ngày 26 tháng 10 năm 2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố bị cáo Võ Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có ý kiến thống nhất theo kết luận định giá, không yêu cầu định giá lại, đà nhận lại tài sản bị mất, đã nhận tiền bồi thường để làm lại chiếc sim và không yêu cầu bị cáo T bồi thường gì thêm.

Ngoài ra người bị hại còn có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành thực hành quyền công tố trình bày quan điểm của viện kiểm sát đối với vụ án, sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử : Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b,i,s khoản 1,2 điều 51, khoản 1,2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Võ Thị T từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 ProMax 128GB, màu vàng gold, bên trong không chứa thẻ sim, đã qua sử dụng đã trả lại cho chủ sở hữu theo quy định.

Trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, nhận được tiền bồi thường đối với chiếc sim điện thoại nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Về án phí buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại lời nói sau cùng bị cáo biết sai, đã nhận thức và ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin được hưởng khoan hồng của pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm và chăm sóc các con còn nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về các hành vi và quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên và Viện kiềm sát nhân dân huyện Yên Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Vì vậy, có đủ cơ sở khẳng định các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố là khách quan và hợp pháp.

Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị hại trong vụ án nhưng họ vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Xét người vắng mặt đã có lời khai tại cơ quan điều tra, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ theo quy định tại điều 292 và điều 287 của bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Nội dung: [2.1] Về hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo Võ Thị T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với bản kết luận định giá tài sản số 35/KL-HĐĐGTS ngày 8/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản của UBND huyện Y và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố và thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định:

Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 30/8/2023, tại sân vận động thuộc xóm B, xã L, huyện Y, Võ Thị T đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 ProMax 128GB, màu vàng gold trị giá 12.500.000 đồng (mười hai triệu năm trăm nghìn đồng) của anh Hoàng Văn C, sinh năm 1991 trú tại xóm B, xã L, huyện Y.

Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh C có trị giá 12.500.000 đồng. Do đó hành vi của bị cáo Võ Thị T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự với mức hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội.

Vì vậy, cần phải nghiêm khắc với bị cáo, phải xử phạt mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[2.2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, biết ăn năn hối cải; sau khi nhận thức được hành vi sai phạm của mình đã đầu thú, phối hợp khai báo để giao nộp tài sản do bị cáo trộm cắp và kịp thời khắc phục hậu quả trả lại tài sản cho người bị hại; bị cáo phạm tội gây thiệt hại không lớn, người bị hại đã nhận lại tài sản, nhận số tiền tự nguyện bồi thường của bị cáo và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Người bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b,i,s khoản 1,2 điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó cần cho bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[2.3.] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

[2.4.] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên không xem xét.

[2.5.] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xử lý vật chứng trả lại tài sản chủ sở hữu và người quản lý tài sản hợp pháp tài sản đó là đúng quy định của pháp luật.

[2.6.] Về mức hình phạt dành cho bị cáo:

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, đánh giá về nhân thân, lý lịch và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ lại đang nuôi 02 con nhỏ. Bị cáo có lý lịch, nơi cư trú rõ ràng và ổn định. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại điều 65 của Bộ luật hình sự như đề nghị của đại diện viện kiểm sát cũng đủ răn đe giáo dục đối với bị cáo và cũng có tác dụng phòng ngừa chung. Như vậy cũng đảm bảo tính nhân văn của pháp luật hình sự và để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà cố gắng cải tạo tốt để trở thành công dân có ích cho xã hội.

Từ những nhận xét, đánh giá trên đây Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành về việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, mức hình phạt, hình phạt bổ sung, bồi thường, án phí và các vấn đề khác theo quy định.

[3.] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[4.] Về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm:

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 331 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b,i,s khoản 1,2 Điều 51, Khoản 1,2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

- Xử phạt bị cáo Võ Thị T 07(B) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14(Mười bốn) tháng tính từ ngày tuyên án (29/11/2023).

Giao bị cáo Võ Thị T cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

2. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Người bị hại không yêu cầu gì về bồi thường thiệt hại nên không xem xét giải quyết.

3. Xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xử lý vật chứng trả lại tài sản chủ sở hữu và người quản lý tài sản hợp pháp tài sản đó là đúng quy định của pháp luật.

4. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo Võ Thị T phải nộp: 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 127/2023/HS-ST

Số hiệu:127/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về