Bản án về tội trộm cắp tài sản số 126/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 126/2023/HS-ST NGÀY 14/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, TP. ĐÀ NẴNG. xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 120/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:118/2023/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Hồ Phi H - sinh ngày 24 tháng 10 năm 1995 tại TP. ĐÀ NẴNG .; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Nơi cư trú: Tổ A, phường H, quận L, TP. ĐÀ NẴNG Đà Nẵng; Con ông Hồ T và bà Nguyễn Thị T1.

Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 21/11/2022, bị U, Q. C xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản theo QĐ số 542 với số tiền 2.500.000 đồng.

Nhân thân:

- Ngày 13/12/2011, bị UNND quận L ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng theo QĐ số 2138 về tội Trộm cắp tài sản.

- Ngày 08/8/2017, bị toà án nhân dân quận Cẩm Lệ xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 44/2017/HSST. Chấp hành xong ngày 20/11/2017, đã chấp hành xong các Quyết định trong Bản án.

Bị cáo bị tạm giam ngày 15 tháng 9 năm 2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận L (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Hồng T2 – Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Đ (Có mặt).

- Bị hại: Anh Nguyễn Quang A – sinh năm 2002; nơi cư trú: 76 P, phường H, quận L, TP. ĐÀ NẴNG . (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hồ C – sinh năm 1994; nơi cư trú: B N, phường H, quận L, TP. ĐÀ NẴNG . (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 03 tháng 10 năm 2022, Hồ Phi H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để tiêu xài cá nhân nên H đi bộ đến nhà số G P, phường H thì phát hiện cửa sổ bên hông ngôi nhà này không đóng. H nhìn vào thấy có 01 (Một) máy tính xách tay nhãn hiệu Gigabyte, màu đen của anh Nguyễn Quang A làm chủ sở hữu để tại vị trí trên bàn gần cửa sổ. Quan sát xung quanh và bên trong nhà không có người nên H sử dụng một đoạn dây thép nhặt được ở gần khu vực này, đưa qua cửa sổ móc máy tính xách tay kéo ra đến gần rồi dùng tay lấy máy tính. Sau khi trộm cắp được tài sản, H mang máy tính đến gặp anh Hồ C là chủ cửa hàng thu mua điện thoại địa chỉ B N, P. H, Q. L để bán. Anh C có hỏi về nguồn gốc máy tính xách tay này thì được H trả lời máy tính do chị của H không có nhu cầu sử dụng nên nhờ H bán giúp. Anh C đã đồng ý mua máy tính với giá: 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Hoàng cung cấp số điện thoại: 0774.X.829 mà H đang sử dụng cho anh C để tiện liên lạc về sau. Sau khi chiếm đoạt tài sản, do sợ bị phát hiện nên H đến tỉnh Đắk Lắk để sinh sống và sử dụng số tiền trên tiêu xài cá nhân hết. Ngày 27/7/2023, H đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận L để đầu thú, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

* Theo Kết luận số: 134/KL-HĐĐG ngày 08/11/2023 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng quận L, xác định giá trị của tài sản cần định giá: 01 (Một) laptop đã sử dụng nhãn hiệu Gigabute, màu đen, Model: AX201NGW, Serial:SN21511J00849: 16.515.000 đồng (Mười sáu triệu năm trăm mười lăm ngàn đồng).

* Vật chứng thu giữ, xử lý vật chứng:

- 01 (một) laptop nhãn hiệu Gigabute, màu đen, Model: AX201NGW, Serial:SN21511J008497.

Ngày 21/11/2022, Cơ quan CSĐT Công an quận L đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 114/CSĐT trả lại tài sản trên cho bị hại là anh Nguyễn Quang A.

Tại Bản cáo trạng số 119/CT-VKS ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Hồ Phi H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Hồ Phi H như Bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Hồ Phi H mức án từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tỳ giam.

Người bào chữa cho bị cáo - Bà Lê Thị Hồng T2 phát biểu luận cứ bào chữa: Thống nhất với tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét mức án thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Hồ Phi H đã khai nhận:

Ngày 03 tháng 10 năm 2023, tại nhà G P, phường H, quận L, Hồ Phi H đã trộm cắp của anh Nguyễn Quang A 01 (một) laptop nhãn hiệu Gigabute, màu đen. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 16.515.000 đồng (Mười sáu triệu năm trăm mười lăm ngàn đồng).

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu thập được. Hội đồng xét xử kết luận: Hành vi của bị cáo H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, có sự tính toán, thể hiện ý thức coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm. Bị cáo H có nhân thân xấu ngày 13/12/2011, bị UNND quận L ra Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng về hành vi trộm cắp tài sản, ngày 08/8/2017, bị Toà án nhân dân quận Cẩm Lệ xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã được xóa án tích, ngày 21/11/2022, bị U, Q. C xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản với số tiền 2.500.000 đồng, mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hội đồng xét xử thấy cần thiết xử phạt bị cáo hình phạt tù, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian dài để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú về hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo. Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Nguyễn Quang A đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về dân sự và không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Anh Hồ C yêu cầu Hồ Phi H bồi thường số tiền 5.000.000 đồng. HĐXX xét thấy, anh Hồ C có hành vi mua tài sản do H phạm tội mà có nhưng không biết nên Cơ quan CSĐT Công an quận L không đề cập xử lý là có cơ sở. HĐXX căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, các điều 584, 586 và 589 Bộ luật Dân sự, buộc Hồ Phi H bồi thường cho anh Hồ C số tiền 5.000.000 đồng.

[6] Về xử lý vật chứng: Ngày 21/11/2022, Cơ quan CSĐT Công an quận L đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 114/CSĐT trả lại tài sản trên cho bị hại là anh Nguyễn Quang A là có cơ sở.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Phi H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Phi H 01 (Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, các điều 584, 586 và 589 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Hồ Phi H bồi thường cho anh Hồ C số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo H phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 126/2023/HS-ST

Số hiệu:126/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về