TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 126/2021/HS-ST NGÀY 30/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22, 24 và 30 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 106/ HSST ngày 19/ 11/ 2021, đối với các bị cáo :
1. Họ và tên: Hoàng Văn L, sinh năm 1979. Tên gọi khác: Không.
HKTT và chỗ ở: Thôn C, xã Đ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không.Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 6/12.Bố đẻ: Hoàng Văn L - SN1940; Mẹ đẻ: Vi Thị D - SN 1952.
Vợ: Tạ Thị H - SN 1983 (đã ly hôn). Bị cáo có 01 con sinh năm 2003.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Bản án số 893/2008/HSPT ngày 27/11/2008, Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 11 năm tù, về tội "Cướp tài sản". Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/01/2017. Bị caó đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/9/2021 đến nay, bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lục Nam( Có mặt ).
2. Họ và tên: Hứa Văn N, sinh năm 1978. Tên gọi khác: Không.
HKTT và chỗ ở: Thôn B, xã T, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 1/12.Bố đẻ: Hứa Văn H - SN 1952; Mẹ đẻ: Lý Thị P - SN 1955.
Vợ: Cam Thị N - SN 1984.Bị caó có 03 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2020.Tiền án, tiền sự: Không.
Bị caó đầu thú bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/9/2021 đến nay, bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Lục Nam ( Có mặt ).
* Bị hại: Chị Lê Thị H, sinh năm 1971( Vắng mặt ).
HKTT và nơi ở: Thôn N, xã T, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Văn Ph - Sinh năm 1978( Vắng mặt ).
Nơi cư trú: Thôn H, xã T, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Anh Giáp Văn L - Sinh năm 1976( Có mặt ).
Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Anh Nguyễn Xuân P - Sinh năm 1982( Có mặt ).
Nơi cư trú: Thôn V, xã Đ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Ông Lý Văn T - Sinh năm 1965( Có mặt ).
Nơi cư trú: Thôn C, xã Đ, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau : Hoàng Văn L, sinh năm 1979 ở Thôn C, xã Đ, huyện Lục Nam và Hứa Văn N, sinh năm 1978 ở Thôn B, xã T, huyện Lục Nam có mối quan hệ bạn bè và đều là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 03/9/2021, L điều khiển xe mô tô loại Win, BKS 12F3-4*** đến nhà N chơi. Do không có tiền nên L, N cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền sử dụng ma túy và chi tiêu cá nhân. Sau đó, L điều khiển xe mô tô Win chở N đi đến khu vực hồ C thuộc Thôn B, xã T, huyện Lục Nam thì thấy vườn cây ăn quả nhà chị Lê Thị H, sinh năm 1971 có HKTT ở thôn N, xã T, thành phố Bắc Giang được rào bằng lưới sắt B40 nên L, N nảy sinh ý định trộm cắp hàng rào sắt trên để bán lấy tiền. Quan sát không có người, L lấy trong cốp xe mô tô ra 01 kìm sắt (Có tay cầm bọc nhựa màu đỏ đen) rồi cùng N thay nhau cắt được 18m hàng rào lưới B40 và dùng tay nhổ các cọc sắt chữ V-V4 (Dùng giữ lưới B40). Sau đó, N cuộn lưới sắt B40, còn L ôm các cọc rào sắt chữ V-V4 ra khu vực để xe mô tô rồi cùng nhau mang 18m lưới sắt B40, có trọng lượng 30kg đến cửa hàng thu mua phế liệu bán cho anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1978 ở Thôn H, xã T, huyện Lục Nam được 270.000 đồng. Tiếp đó, L chở N mang số cọc rào sắt chữ V-V4 có trọng lượng 20kg đến cửa hàng thu mua phế liệu bán cho anh Giáp Văn L, sinh năm 1976 ở Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Nam được 210.000 đồng.
Đến khoảng 11 giờ 30 phút ngày 04/9/2021, L, N tiếp tục rủ nhau đến vườn cây ăn quả nhà chị H và trộm cắp 01 máy bơm nước hỏa tiễn, nhãn hiệu Galaxy 1,1Kw màu bạc rồi mang đến cửa hàng sửa chữa đồ điện của anh Nguyễn Xuân P, sinh năm 1982 ở Thôn V, xã Đ, huyện Lục Nam bán được 600.000 đồng. Số tiền bán lưới B40, cọc sắt và máy bơm, N, L chia nhau sử dụng cá nhân hết.
Ngày 13/9/2021, L, N đến Công an đầu thú và L giao nộp: 01 kìm sắt (Tay cầm bọc nhựa màu đỏ đen); 01 xe mô tô Win, BKS 12F3-4*** Quá trình điều tra, anh Nguyễn Xuân P đã tự nguyện giao nộp: 01 máy bơm nước hỏa tiễn, nhãn hiệu Galaxy 1,1Kw màu bạc , anh Nguyễn Văn P giao nộp: 01 cuộn dây thép lưới B40 có trọng lượng 30kg .
Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 14/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lục Nam, kết luận: 01 chiếc máy bơm nước GALAXY 1,1KW có giá trị là 2.520.000 đồng; 20kg sắt (loại thanh sắt chữ V-V4) trị giá 200.000 đồng; 30kg sắt (loại dây sắt hàng rào B40) trị giá 300.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 3.020.000 đồng.
Đối với hành vi trộm cắp 18 m hàng rào sắt loại lưới B40 và các cọc sắt chữ V- V4 ngày 03/9/2021 của L và N. Quá trình điều tra xác định chưa đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự nên Công an huyện Lục Nam đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Đối với số cọc sắt chữ V-V4, quá trình điều tra xác định sau khi mua của L, N thì anh L đã bán cho người thu mua phế liệu khác nên Cơ quan điều tra không tiến hành thu hồi được. Khi anh Ph, anh L, anh P mua các tài sản trên không biết đó là tài sản do L, N trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập, xử lý.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại 01 máy bơm nước nhãn hiệu GALAXY, công suất 1,1KW; 18m lưới sắt B40 cho chị H. Còn 01 kìm sắt và 01 xe mô tô Win, BKS 12F3-4***, Cơ quan điều tra chuyển đến Chi cục thi hành an dân sự huyện Lục Nam để xử lý cùng vụ án.
Anh P yêu cầu các bị caó bồi thường số tiền 600.000 đồng; anh Ph, anh L và chị H không yêu cầu bồi thường.
Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Văn L, Hứa Văn N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.
Cáo trạng số 103 /CT- VKS ngày 15/ 11/ 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố Hoàng Văn L và Hứa Văn N về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật, không oan. Các bị cáo khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 03/ 9/ 2021, L, N cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền sử dụng ma túy và chi tiêu cá nhân. Sau đó, L điều khiển xe mô tô Win chở N đi đến vườn cây ăn quả ở Thôn B, xã T, huyện Lục Nam rồi trộm cắp 18m hàng rào lưới B40 và các cọc sắt chữ V-V4 . Sau đó, N L cùng nhau mang 18m lưới sắt B40 đến cửa hàng thu mua phế liệu ở Thôn H, xã T, huyện Lục Nam được 270.000 đồng, bán số cọc rào sắt chữ V-V4 cho cửa hàng thu mua p hế liệu ở Thôn Đ, xã Đ, huyện Lục Nam được 210.000 đồng. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 04/ 9/ 2021,L và N quay lại vườn cây ăn quả trên và tiếp tục trộm cắp 01 máy bơm nước nhãn hiệu GALAXY, công suất 1,1KW màu bạc .Quá trinh thực hiện hành vi trộm cắp các bị cáo bàn bạc, phân công nhiệm vụ.
Các bị cáo trộm cắp mục đích mua ma túy sử dụng, nay nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật và ăn năn hối cải. Các bị cáo đồng ý kết luận định giá tài sản.
Bị hại là chị Lê Thị H vắng mặt, tại Cơ quan điều tra trình bày: Ngày 13/9/2021,tại vườn cây ăn quả của gia đình chị Lê Thị H, ở Thôn B, xã T, huyện Lục Nam, gia đình chị H phát hiện bị trộm cắp 18m hàng rào lưới B40 và các cọc sắt chữ V-V4, 01 máy bơm nước GALAXY, công suất 1,1KW màu bạc; nay chị H đã được Cơ quan điều tra trả lại nên không yêu cầu gì.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn P vắng mặt, tại Cơ quan điều tra trình bày trình bày : Ngày 03/9/2021có 2 người đàn ông mang 18m lưới sắt B40, có trọng lượng 30kg đến cửa hàng thu mua phế liệu bán cho anh Ph được 270.000 đồng; anh Ph không biết là tài sản trộm cắp mà có, nay đã giao nộp cơ quan điều tra, không yêu cầu bị cáo bồi thường.
Anh Giáp Văn L tại phiên tòa trình bày : Ngày 03/ 9/ 2021có 2 người đàn ông mang số cọc rào sắt chữ V-V4 có trọng lượng 20kg đến cửa hàng thu mua phế liệu bán cho anh Giáp Văn L, được 210.000 đồng. Anh L không biết là tài sản trộm cắp mà có; số cọc sắt trên anh L đã bán cho người thu mua phế liệu khác, anh L không yêu cầu các bị cáo bồi thường Anh Nguyễn Xuân P tại phiên tòa trình bày : Ngày 04/ 9/ 2021có 2 người đàn ông mang 01 máy bơm nước hỏa tiễn, nhãn hiệu Galaxy 1,1Kw màu bạc đến cửa hàng sửa chữa đồ điện của anh P bán được 600.000đồng . Anh P không biết là tài sản trộm cắp mà có và đã giao nộp cơ quan điều tra. Tại phiên tòa anh P không yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại.
Ông Lý Văn T tại phiên tòa ngày 30/ 12/ 2021 trình bày: Chiếc xe mô tô Win, BKS 12F3-4*** do ông Tích mua của một người ở tỉnh Lạng Sơn về sử dụng đi rừng. Sau đó do thấy Hứa Văn N không có xe đi lại nên khoảng 2 tháng trước khi N phạm tội, ông Tích đã tặng cho N chiếc xe trên để sử dụng đi lại hằng ngày; khi tặng cho N thì chỉ nói miệng, không có văn bản gì. Tại phiên tòa, ông Tích xuất trình Giấy đăng ký mô tô Win, BKS 12F3-4***, ông Tích không yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam đánh giá tính chất vụ án, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng truy tố; đồng thời luận tội và đề nghị kết tội như sau: Các bị cáo phạm tội không có sự câu kết chặt chẽ nên có tính chất đồng phạm đơn giản, vai trò như nhau. Hành vi của các bị cáo trộm cắp 01 máy bơm nước trị giá 2.520.000 đồng đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Các bị caó đều không có tình tiết tăng nặng và đều có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là "Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú". Bị caó N có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” .
Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn L và Hứa Văn N phạm tội “ Trộm cắp tài sản” . Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Văn L từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/9/2021; căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự bị cáo N từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/ 9/2021; không phạt bổ sung do các bị cáo nghiện, không có thu nhập.
Vật chứng: Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 xe mô tô Win, BKS 12F3-4***, tịch thu tiêu hủy 01 kìm sắt.
Án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo do là hộ cận nghèo và người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn.
Các bị cáo nói lời sau cùng : Các bị cáo ăn năn hối cải và xin giảm hình phạt .
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lục Nam, Điều tra viên;Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình khởi tố điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều không yêu cầu được trợ giúp pháp lý . Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại giai đoạn điều tra, lời khai của bị hại, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau :
[2]. Về căn cứ cấu thành tội phạm : Ngày 03/ 9/ 2021 tại vườn cây ăn quả của gia đình chị Lê Thị H ở Thôn B, xã T, huyện Lục Nam; bị cáo L và N đã cùng nhau trộm cắp 18 m hàng rào sắt loại lưới B40 và các cọc sắt chữ V-V4 tổng trị giá là 500.000 đồng nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự nên Công an huyện Lục Nam đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định. Ngày 04/ 9/ 2021 các bị cáo tiếp tục trộm cắp 01 máy bơm nước nhãn hiệu GALAXY màu bạc trị giá 2.520.000 đồng của gia đình chị H, do vậy hanh vi cua các bi ̣cao đã câu thanh tôị phạm “ Trộm cắp tài sản” đươc̣ quy điṇ h taị khoan 1 Điêu 173 Bộ luâṭ hinh sự. Các bị cáo phạm tội không có sự câu kết chặt chẽ nên có tính chất đồng phạm đơn giản, vai trò như nhau.
[2.1]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt : Các bị caó không có tình tiết tăng nặng và đều có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đầu thú; bị caó N có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “ Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” .
[2.2]. Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời còn là nguyên nhân và điều kiện phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác; các bị cáo đều có nhân thân xấu là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo L có nhân thân về tội “ Cướp tài sản ”. Vì vậy cần thiết phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi và nhân thân các bị cáo, bảo đảm tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung. Các bi c̣ ao đang taṃ giam nên cân tiêp tuc̣ taṃ giam để đam bao thi hanh an.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam truy tố các bị cáo và luận tội , kết tội của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng quy định pháp luật.
[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do thuộc hộ cận nghèo và người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn, không có thu nhập, tài sản riêng.
[3]. Về vật chứng và các vấn đề khác : Chiếc xe mô tô Win, BKS 12F3-4*** xác định là tài sản của bị cáo N nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước, tịch thu tiêu hủy 01 kìm sắt.
Trách nhiệm dân sự: Không.
Án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo do là hộ cận nghèo và người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn..
Khi anh Ph, anh L, anh P mua các tài sản trên không biết đó là tài sản do rộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý là đúng quy định pháp luật.
Từ những nhận định trên:
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, các Điều 292, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự:
Xử phạt bị cáo Hoàng Văn L 09 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 14/ 9/ 2021.
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i và s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự, các Điều 292, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự:
Xử phạt bị cáo Hứa Văn N 07 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản” , thời hạn tù tính từ ngày 14/ 9/ 2021.
2. Không phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo L và N .
3.Vật chứng, án phí và các vấn đề khác:Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ Nhà nước xe mô tô Win, BKS 12F3- 4***, tịch thu tiêu hủy 01 kìm sắt vật chứng vụ án.
Án phí: Căn cứ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/ 12/ 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo.
Các bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên bản án sơ thẩm. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 126/2021/HS-ST
Số hiệu: | 126/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về