Bản án về tội trộm cắp tài sản số 124/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 124/2021/HS-PT NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (11 Tôn Đức Thắng, phường Phú Hội, thành phố Huế) xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 111/2021/TLPT-HS ngày 14 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo Tôn Thất Minh Đ. Do có kháng cáo của bị cáo Tôn Thất Minh Đ đối với bản án hình sự sơ thẩm số 181/2021/HSST ngày 07/9/2021 của Toà án nhân dân thành phố Huế.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Tôn Thất Minh Đ (tên gọi khác: Rin), sinh ngày 15/02/2004, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Số 09 Tống Duy T, phường Đông B, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 11/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tôn Thất Minh T và bà Trương Nữ Cẩm H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/5/2020, bị Công an huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

Đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Tôn Thất Minh T và bà Trương Nữ Cẩm H; cùng trú tại: 09 Tống Duy T, phường Đông B, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (có mặt).

Người bị hại: Ông Tôn Thất Minh T và bà Trương Nữ Cẩm H; cùng trú tại: 09 Tống Duy T, phường Đông B, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Tôn Thất Minh Đ: Bà Trần Thị Hồng M - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tôn Thất Minh Đ sống cùng cha mẹ là ông Tôn Thất Minh T và bà Trương Nữ Cẩm H tại nhà số 9 Tống Duy T, phường Thuận T (nay là phường Đông B), thành phố Huế. Khoảng 19 giờ ngày 07/3/2021, lợi dụng lúc không có ai ở nhà, Đ nảy sinh ý định lấy trộm tài sản của bố mẹ, nên đi đến phòng của ông T và bà H ở tầng 01. Do cửa vào phòng bị khóa, nên Đ lấy một cái búa ở kho trong nhà phá khóa cửa. Sau khi phá được khóa cửa, Đ đi đến tủ áo quần ở trong phòng thì nhìn thấy tủ đã bị khóa. Đ lấy thêm một cái tuốc nơ vít ở kho, cạy cửa tủ ra thì thấy trong tủ có 01 cái ví và 01 túi xách. Đ mở ví lấy được 01 thẻ ATM Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, 01 thẻ ATM Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, cùng 01 tờ giấy ghi mật khẩu ATM của 02 thẻ trong ví. Đ mở túi xách lấy được số tiền 1.000.000 đồng, 400 USD (đô la Mỹ) và 01 điện thoại Iphone 8 plus màu hồng. Sau khi lấy được tài sản, Đ để ví và túi xách lại vị trí cũ rồi đi lên phòng của mình ở tầng 02. Do điện thoại có cài mật khẩu không mở được nên Đ giấu dưới bàn máy tính trong phòng của Đ. Sau đó, Đ đi xe taxi đến trạm ATM của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam ở 155 Trần Hưng Đ, phường Phú H, thành phố Huế, dùng thẻ ATM của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam rút 04 lần được số tiền 13.000.000 đồng (02 lần 5.000.000 đồng, 01 lần 1.000.000 đồng và 01 lần 2.000.000 đồng). Rút tiền xong, Đ tiếp tục đi đến trạm ATM của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam ở 10 Hoàng Hoa T, phường Vĩnh N, thành phố Huế, dùng thẻ ATM của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam rút 04 lần được số tiền 20.000.000 đồng (mỗi lần 5.000.000 đồng), Đ tiếp tục sử dụng thẻ này rút thêm số tiền 500.000 đồng tại 01 trạm ATM trên đường Lê Quý Đ, thành phố Huế. Sau khi rút tiền, Đ làm mất 02 thẻ ATM này nên không thu giữ được. Số tiền 400 USD, Đ đến tiệm vàng Ngọc P ở 259 Trần Hưng Đ, phường Phú H, thành phố Huế đổi được 8.000.000 đồng. Số tiền có được Đ tiêu xài cá nhân hết. Đối với búa, tuốc nơ vít bị thất lạc trong quá trình sử dụng nên không thu giữ được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 81/KL-HĐĐGTS ngày 24/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Huế kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus, bản 256 Gb, màu hồng, số imei ở k 35297990437756 có ốp điện thoại màu vàng đồng trị giá 8.000.000 đồng.

Tại Công văn số 148/TTH-THNSKSNB ngày 23/3/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Thừa Thiên Huế xác định tỷ giá Đồng Việt Nam (VNĐ) với Đô la Mỹ (USD) ngày 07/3/2021 là: 1 USD=23.166 VNĐ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 114 ngày 21/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Huế kết luận, giá trị tài sản bị thiệt hại tại thời điểm ngày 11/3/2020 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu đen có giá trị:

3.000.000đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 181/2021/HSST ngày 07/9/2021, Tòa án nhân dân thành phố Huế đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Tôn Thất Minh Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 173; điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Tôn Thất Minh Đ 04 tháng 15 ngày tù. Thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng, tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, bị cáo Tôn Thất Minh Đ có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Ngày 22/11/2021, đại diện hợp pháp của bị cáo, đồng thời là người bị hại ông Tôn Thất Minh T và bà Trương Nữ Cẩm H có đơn trình bày: Hiện nay bị cáo Đ đã biết ăn năn, hối cải đã đi làm thêm để phụ giúp gia đình, do đó xin cho bị cáo được hưởng án treo để ở nhà tiếp tục đi học.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo của mình, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế tham gia phiên tòa có quan điểm về tính hợp pháp của kháng cáo và có quan điểm về việc Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Đức 04 tháng 15 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ; Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đặc điểm nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt 04 tháng 15 ngày tù là phù hợp. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã đi làm có thu nhập để phụ giúp gia đình, người bị hại là bố mẹ của bị cáo cũng đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng án treo; xét thấy bị cáo có đủ các điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 90, 91, 101, Điều 65 của Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1]. Về nội dung vụ án: Khoảng 19 giờ ngày 07/3/2021, tại nhà ở của Tôn Thất Minh Đ cùng với bố mẹ của mình tại số 09 Tống Duy T, phường Đông B, thành phố Huế, Đ đã lợi dụng khi bố mẹ mình là ông Tôn Thất Minh T và bà Trương Nữ Cẩm H đi vắng đã lén lút chiếm đoạt tài sản gồm: Tiền mặt 34.500.000 đồng, 400 USD, 01 điện thoại Iphone 8 plus. Tổng giá trị tài sản qua định giá là 51.766.400 đồng.

Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân thành phố Huế đã kết án bị cáo Tôn Thất Minh Đ về “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, khoản 2, Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2]. Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Tôn Thất Minh Đ, thấy rằng: Bị cáo Tôn Thất Minh Đ là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên dẫn đến việc phạm tội; hành vi của bị cáo không những xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn làm ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý tương xứng với hành vi phạm tội mới đảm bảo tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa.

Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng mức hình phạt 04 tháng 15 ngày tù đối với bị cáo Đức là phù hợp, đã cân nhắc, xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và áp dụng các quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm xác định bị cáo Tôn Thất Minh Đ có 01 tiền sự, là không chính xác, bởi vì: Ngày 08/5/2020, Đức bị Công an huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính số tiền 375.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (khi bị xử phạt hành chính Đức được 16 tuổi 02 tháng 24 ngày) và ngày 25/5/2020 Đức đã nộp tiền phạt. Tại khoản 1 Điều 137 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định:“1. Người chưa thành niên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm...”.

Như vậy, khi Đức thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 07/3/2021 (khi thực hiện hành vi này Đức mới 17 tuổi 20 ngày) là đã quá 06 tháng, nên được coi là chưa bị xử phạt hành chính; đối chiếu với các quy định được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo Đức có đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự. Tại cấp phúc thẩm, bố mẹ của bị cáo là ông Tôn Thất Minh T và bà Trương Nữ Cẩm H, là người đại diện hợp pháp cho bị cáo, đồng thời là người bị hại có đơn trình bày, hiện nay bị cáo Đức đã biết ăn năn, hối cải về hành vi của mình, đã có công việc ổn định nên đề nghị Hội đồng phúc thẩm xem xét cho bị cáo Đức được hưởng án treo. Vì vậy, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đ, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[3]. Án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo Tôn Thất Minh Đ không phải chịu.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, khoản 1, Điều 355; điểm e, khoản 1, Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự,

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tôn Thất Minh Đ, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 181/2021/HSST ngày 07/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Huế về biện pháp chấp hành hình phạt.

2. Áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 173; điểm b, c khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 65; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Tôn Thất Minh Đ 04 (bốn) tháng 15 (mười lăm) ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Tôn Thất Minh Đ cho Ủy ban nhân dân phường Đông Ba, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Tôn Thất Minh Đ không phải chịu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 124/2021/HS-PT

Số hiệu:124/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về