Bản án về tội trộm cắp tài sản số 123/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 123/2021/HSST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. B, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 86/2021/HSST ngày 03 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2021/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Trọng Ngh; Tên gọi khác: Beo;

Giới tính: Nam;

Sinh năm 1981, tại Đồng Nai;

Nơi cư trú: hông nơi cư trú ổn định;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa;

Trình độ học vấn: 06/12;

Nghề nghiệp: Không; Chức vụ, đảng phái: không; Họ và tên cha: Vũ Văn L, sinh năm 1954; (đã chết) Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1949; (đã chết) Họ và tên anh: Vũ Đình Ph, sinh năm 1975;

Họ và tên anh: Vũ Ng, sinh năm 1979;

Gia đình có ba anh em. Bị cáo là con út trong gia đình;

Sống chung như vợ chồng với chị Chu Thị Kiều V, sinh năm 1978 từ năm 2005 đến năm 2010, có một con chung sinh năm 2009;

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

Ngày 21/10/2019 bị Công an TP. B, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính 2.250.000đồng về việc tràng trữ trái phép chất ma túy theo QĐ số 1467/QĐ.

Ngày 07/12/2011 bị Tòa án nhân dân TP. B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 (hai) năm tù về tội tràng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số 732/HSST.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15 tháng 11 năm 2020 và chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1477 ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Lữ Hồng H, sinh năm 1994 Địa chỉ số **, Cư xá Bệnh viện B, khu phố 8, phường Tân Phong, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 06 tháng 10 năm 2019, Vũ Trọng Ngh đi lang thang trong khu vực Cư xá Bệnh viện 7B thuộc khu phố 8, phường Tân Phong, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện trước cửa nhà trọ của chị Lữ Hồng H địa chỉ số 1/1, Cư xá Bệnh viện 7B, khu phố 8, phường Tân Phong, thành phố B có dựng 01 chiếc xe môtô hiệu SYM Attila màu đỏ, biển số 60B5-281.64 không có ai trông coi, không khóa cổ xe nên Ngh nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe này, thực hiện ý định trên Ngh đi vào trộm xe rồi đưa về phòng trọ của anh Nguyễn Minh Hiếu, sinh năm 1974 tại khu phố 7, phường Tân Tiến, thành phố B gửi để tìm cách tiêu thụ. Đến 18 giờ cùng ngày, chị Hạnh phát hiện xe môtô bị mất nên đến Công an phường Tân Phong trình báo, đồng thời đưa thông tin và đặc điểm chiếc xe bị mất lên mạng xã hội Facebook thì nhận được thông chiếc xe của chị Hạnh đang ở phòng trọ của anh Nguyễn Minh Hiếu tại khu phố 7, phường Tân Tiến, thành phố B nên chị Hạnh đã báo Công an phường Tân Tiến, phối hợp Công an phường Tân Phong kiểm tra phòng trọ của Hiếu thu giữ chiếc xe trên.

hoảng 06 giờ ngày ngày 07/10/2019, Ngh quay lại phòng trọ của anh Hiếu để lấy xe thì bị Công an phường Tân Tiến kiểm tra mời về trụ sở làm việc. Tại đây, Ngh khai nhận hành vi trộm cắp trên nên Công an phường Tân Tiến chuyển giao đối tượng và tang vật cho Công an phường Tân Phong lập hồ sơ giao đến Cơ quan điều tra Công an TP B điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe môtô hiệu SYM Atila màu đỏ, biển số 60B5-281.64, số máy: 075917, số khung: 075917 bị chiếm đoạt, là tài sản của chị Lữ Hồng H nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị Hạnh;

- 01 xe môtô hiệu YOSHIDA màu đỏ đen, biển số 93H1-4716, số máy: 5002220, số khung: 002220, tạm giữ của Ngh. Ngh cho biết chiếc xe trên Ngh mua tại cơ sở thu mua ve chai gần khu vực sân bóng đ Đồng Nai, không có giấy chứng nhận đăng ký xe. Qua tra cứu chiếc xe do chị Nguyễn Thị Ngọc Lan (sinh năm 1982, ngụ tại ấp 4, xã Tân Lập, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước) đứng tên chủ sở hữu; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã có công văn ủy th c đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước điều tra xác minh về chiếc xe trên nhưng chưa có kết quả, chưa làm rõ được nguồn gốc chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục tạm giữ, xác minh làm rõ để xử lý sau.

- Tại bản ết luận định gi tài sản số 533/TC H-HĐĐGTS ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Hội đồng định gi tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 chiếc xe môtô hiệu SYM Attila màu đỏ, biển số 60B5-281.61, số máy: 075917, số khung: 075917, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 50%, trị gi 14.000.000 đồng (Mười bốn triệu đồng)”.

- Về dân sự: Chị Lữ Hồng H đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường.

Tại cáo trạng số: 113/CT/VKS-BH ngày 01 tháng 02 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Vũ Trọng Ngh, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điều khoản và tội danh như đã nêu trên; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như sau: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền án tiền sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Vũ Trọng Ngh mức án từ 12 (mười hai) tháng tù đến 16 (mười sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Hạnh đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. B, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Trên cơ sở khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai và biên bản đối chất của bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có cơ sở xác định:

Khoảng 17 giờ ngày 06 tháng 10 năm 2019, tại trước phòng trọ địa chỉ số 1/1, cư xá Bệnh viện 7B, khu phố 8, phường Tân Phong, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai, Vũ Trọng Ngh đã có hành vi trộm cắp 01 xe môtô hiệu SYM Atila màu đỏ, biển số 60B5-281.61, số máy: 075917, số khung: 75917, đã qua sử dụng, có giá trị định gi : 14.000.000 đồng (Mười bốn triệu đồng) của chị Lữ Hồng H thì bị phát hiện, điều tra xử lý.

[3] Về tội danh:

Xét thấy, hành vi của bị cáo như đã nêu trên, đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản: tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Từ những căn cứ trên, xét thấy cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành phố B đã truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật, bị cáo biết hành vi trộm cắp là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi ích cá nhân bị cáo đã cố tình vi phạm pháp luật, lợi dụng sơ hở của người bị hại để lấy trộm tài sản nhằm mang bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân, là khách thể bảo vệ của pháp luật hình sự và gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người tốt và nhằm để răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét thấy, trong qu trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, chưa có tiền n tiền sự. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo đều không có nghề nghiệp ổn định, bản thân lại không có thu nhập ổn định, nên không có điều kiện để thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

- 01 xe môtô hiệu SYM Atila màu đỏ, biển số 60B5-281.64, số máy: 075917, số khung: 075917 bị chiếm đoạt, là tài sản của chị Lữ Hồng H nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho chị Hạnh;

- 01 xe môtô hiệu YOSHIDA màu đỏ đen, biển số 93H1-4716, số máy: 5002220, số khung: 002220, tạm giữ của Ngh. Ngh cho biết chiếc xe trên Ngh mua tại cơ sở thu mua ve chai gần khu vực sân bóng đ Đồng Nai, không có giấy chứng nhận đăng ký xe. Qua tra cứu chiếc xe do chị Nguyễn Thị Ngọc Lan (sinh năm 1982, ngụ tại ấp 4, xã Tân Lập, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước) đứng tên chủ sở hữu; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã có công văn ủy th c đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước điều tra xác minh về chiếc xe trên nhưng chưa có kết quả, chưa làm rõ được nguồn gốc chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục tạm giữ, xác minh làm rõ để xử lý sau.

- Đối với anh Nguyễn Minh Hiếu đã cho bị cáo Ngh gửi chiếc xe môtô hiệu SYM Atila màu đỏ, biển số 60B5-281.61 tại nhà của anh Hiếu. Tuy nhiên, anh Hiếu không biết chiếc xe trên cho Ngh trộm cắp có được nên không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh Hiếu.

- Đối với chiếc xe môtô hiệu YOSHIDA màu đỏ đen, biển số 93H1-4716, Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ, xác minh nguồn gốc, các giao dịch liên quan đến chiếc xe để xử lý theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. B tại phiên tòa, xét thấy tương đối phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Vũ Trọng Ngh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Trọng Ngh mức án 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15 tháng 11 năm 2020.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vũ Trọng Ngh phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Vũ Trọng Ngh có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại bà Lữ Hồng H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày bản án được giao hoặc niêmáyết theo quy định pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 123/2021/HSST

Số hiệu:123/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về