TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 12/2024/HS-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 152/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
LÃNH VĂN T, sinh năm 1995 tại Nghệ An; Giới tính: Nam;Nơi đăng ký HKTT: Thôn B, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Chỗ ở hiện nay: Không cố định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Lãnh Văn H, sinh năm 1962 và bà Lãnh Thị H, sinh năm 1971; Vợ: Lữ Thị H, sinh năm: 1998; Con: Chưa có; Tiền án,tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 08/9/2023 cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
Anh Trần Tuấn Ph, sinh năm 1988; nơi cư trú: Tổ 2, kp Mỹ Hưng, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước;
Ông Phan Văn Th, sinh năm 1968; nơi cư trú: Tổ 3, kp Mỹ Hưng, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước Bà Nguyễn Thuỳ L, sinh năm 1971; nơi cư trú: Tổ 4, kp Mỹ Hưng, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1967; nơi cư trú: Tổ 1, kp Mỹ Hưng, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước Ông Võ Sỹ T, sinh năm 1985; nơi cư trú: Tổ 4, kp 6, phường Hưng Long, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước;
Anh Đoàn Văn C, sinh năm 1987; nơi cư trú: Tổ 2, kp Đồng Tâm, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước
- Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan: Anh Tạ Quốc T, sinh năm 1998; nơi cư trú: Tổ 4, kp Đồng Tâm, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lãnh Văn T nghiện ma túy, không có nơi ở và nghề nghiệp ổn định; để có tiền tiêu xài cá nhân và sử dụng ma túy trái phép, từ ngày 29 tháng 8 đến ngày 08 tháng 9 năm 2023, lợi dụng sơ hở trong quản lý xe mô tô của các người bị hại để xe mô tô trong các vườn cao su, T đã 06 lần trộm cắp xe mô tô trên địa bàn phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, cụ thể:
Lần thứ nhất:
Khoảng 8 giờ 30 phút, ngày 29 tháng 8 năm 2023, T đi bộ từ cầu vượt đi bộ theo đường Hồ Chí Minh về hướng phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành. Đến vườn cao su thuộc khu phố 1, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, T phát hiện chiếc xe mô tô Cup 50 đã cũ, màu xám đen, có dính nhiều mủ cao su, không có bửng, không có biển số của anh Trần Tuấn Ph dựng ở ngay vườn cao su, không có người trông coi, T lấy trộm rồi điều khiển về chân Cầu Vượt cất giấu.
Vụ thứ hai:
Khoảng 09 giờ ngày 02 tháng 9 năm 2023, T đi bộ từ Cầu Vượt đến khu phố Mỹ Hưng, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, phát hiện chiếc xe Honda Wave, màu xanh, đã cũ, biển kiểm soát: 93F7-73xx của ông Phan Văn Th dựng trong vườn cao su, không có người trông coi. T lén lút tháo dây điện ổ khóa, lấy trộm rồi điều khiển xe đến khu vực ấp Cầu Sắt, xã Lai Hưng, huyện Bàu Bàng bán xe mô tô lấy trộm của ông Thế cho người phụ nữ mua phế liệu dạo được 500.000 đồng.
Vụ thứ ba:
Khoảng 07 giờ ngày 05 tháng 9 năm 2023, T tiếp tục đi bộ từ Cầu Vượt đến vườn cao su thuộc khu phố Mỹ Hưng, phường Thành Tâm của bà Nguyễn Thùy L làm chủ phát hiện chiếc xe cúp 50, màu xanh, không có bửng, không có kính chiếu hậu, biển kiểm soát: 53PA-2xxx không có người trông coi. T lén lút lấy trộm rồi điều khiển xe mô tô đến khu vực khu phố Cây Săn, thị trấn Lai Uyên, huyện Bàu Bàng bán cho người phụ nữ mua phế liệu dạo được 500.000 đồng.
Vụ thứ tư:
Khoảng 08 giờ ngày 06 tháng 9 năm 2023, T tiếp tục đi bộ từ Cầu Vượt đến khu vực khu phố 1, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành phát hiện chiếc xe Sirius màu đen, màu đen, có bửng, không có kính chiếu hậu, xe đã cũ, biển kiểm soát: 92N3-64xx của ông Nguyễn Văn S dựng trong vườn cao su, không có người trông coi. T lén lút trộm rồi điều khiển xe đến khu vực ấp Cầu Sắt, xã Lai Hưng, huyện Bàu Bàng bán xe mô tô cho người đàn ông mua phế liệu dạo được 700.000 đồng.
Vụ thứ năm:
Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 07 tháng 9 năm 2023, T tiếp tục đi bộ từ Cầu Vượt đến khu vực khu phố Mỹ Hưng, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành phát hiện chiếc xe Dream, đã cũ chỉ còn khung sườn, không có bửng, không có kính chiếu hậu, không có biển số của anh Tạ Quốc T dựng trong vườn cao su, không có người trông coi. T lén lút trộm cắp rồi điều khiển xe đến khu vực khu phố 3, phường Tân Định, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương bán cho người phụ nữ mua phế liệu dạo được 500.000 đồng.
Lần thứ sáu:
Khoảng 08 giờ ngày 08 tháng 9 năm 2023, T đón xe ô tô kinh doanh vận tải chở người (xe đò) từ khu vực Mỹ Phước 2, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đến Khu công nghiệp Chơn Thành, thuộc phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành. Khi đi bộ đến lô cao su thuộc tổ 3, khu phố 1, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành thì phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Dream, màu nâu, không bửng, biển kiểm soát: 52K6-89xx của anh Võ Sỹ T dựng trong vườn cao su, xe không có chìa khóa và không có người trông coi. Thấy vậy, T lén lút dẫn xe mô tô rời khỏi vị trí dựng xe ban đầu khoảng 100 mét thì bị anh T phát hiện bắt quả tang.
Tại Kết luận định giá tài sản số 79 ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Chơn Thành xác định:
Xe mô tô nhãn hiệu Dream, màu nâu, biển kiểm soát 52K6-89xx của anh Võ Sỹ T giá trị sử dụng còn lại là 2.000.000 đồng.
Xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu xanh, biển kiểm soát 93F7-73xx của ông Phan Văn Th giá trị sử dụng còn lại là 1.000.000 đồng.
Xe mô tô nhãn hiệu Honda Cup, màu xanh, biển kiểm soát 53PA-2xxx của bà Nguyễn Thùy L giá trị sử dụng còn lại là 1.000.000 đồng.
Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển kiểm soát 93N2-64xx của ông Nguyễn Văn S giá trị sử dụng còn lại là 1.000.000 đồng.
Xe mô tô nhãn hiệu Dream, màu đen, xe đã cũ, không có biển số của anh Đoàn Văn C giá trị sử dụng còn lại là 300.000 đồng.
Tại kết luận định giá tài sản số 80/KLĐG ngày 20 tháng 9 năm 2023, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Chơn Thành xác định: xe mô tô nhãn hiệu Honda Cup đã cũ, màu xám đen, không có biển số của anh Trần Tuấn Ph giá trị sử dụng còn lại là 200.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 5.500.000 đồng (bút lục số: 01, 02, 19, 20, 103- 105, 110, 115, 120, 126, 131, 137, 142, 146, 156, 157, 159-161, 166, 173).
Về tạm giữ đồ vật, tài liệu và xử lý vật chứng : Không có.
Về trách nhiệm dân sự:
Anh Đoàn Văn C và anh Tô Quốc T yêu cầu bị cáo bồi thường cho anh Đoàn Văn C số tiền 300.000 đồng; Chị Nguyễn Thùy L yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 1.000.000 đồng; ông Phan Văn Th yêu cầu bị cáo bồi thường 1.000.000 đồng;
Bản cáo trạng số 05/CTr-VKS, ngày 22 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Lãnh Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành giữ nguyên quyết định truy tố bị Lãnh Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lãnh Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1, Điều 52, Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức án 15 đến 24 tháng tù.
Tại phiên tòa, bị cáo Lãnh Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đã truy tố. Bị cáo không tranh luận, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận và kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, các bị hại xin vắng mặt. Do đó, căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về hành vi phạm tội và tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.
Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với lời khai của bị hại cũng như phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Do không có công việc ổn định, nghiện ma túy nên Lãnh Văn T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Do đó, ngày 28 tháng 8 đến ngày 08 tháng 9 năm 2023, Lãnh Văn T đã 06 lần trộm cắp tài sản trên địa bàn phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành cụ thể là: Ngày 29/8/2023 Lãnh Văn T lén lút lấy trộm xe mô tô Cup 50 của anh Trần Tuấn Ph, xe mô tô trên có giá trị 2.000.000 đồng ; Ngày 02/9/2023 T đã lén lút lấy trộm xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh biển kiểm soát 93F7-73xx của ông Phan Văn Th có giá trị 1.000.000 đồng; Ngày 05/9/2023 T tiếp tục lấy trộm xe mô tô Cup 50, màu xanh biển kiểm soát 53PA-2xxx của bà Nguyễn Thị Thùy Liên có giá trị 1.000.000 đồng; Ngày 06/9/2023 T lấy trộm chiếc xe mô tô Sirius biển kiểm soát 92N3-64xx của ông Nguyễn Văn S có giá trị 1.000.000 đồng; Ngày 07/9/2023 T lấy trộm xe mô tô Dream không biển kiểm soát của anh Đoàn Văn C do anh Tạ Quốc T mượn để đi cạo mủ cao su, có giá trị 300.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản mà Lãnh Văn T đã chiếm đoạt tại thời điểm xảy ra vụ án trị giá 5.500.000 đồng (Năm triệu năm trăm ngàn đồng). Do đó, hành vi của Lãnh Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình Sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên phải chịu trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo đã 06 lần trộm cắp tài sản, trong đó có 01 lần trộm cắp tài sản xe mô tô của ông Võ Sỹ T trị giá 2.000.000 đồng, còn 05 lần còn lại thì tổng giá trị tài sản trộm cắp là 3.500.000 đồng nên bị áp dụng tình tiết “phạm tội từ 2 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;
[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy, bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương và bị cáo không có nơi cư trú ổn định nên phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy hiện tại bị cáo là người không có việc làm, thu nhập không ổn định, không có tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Đoàn Văn C và Tô Quốc T yêu cầu bị cáo bồi thường cho anh Đoàn Văn C số tiền 300.000 đồng; bà Nguyễn Thùy L yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 1.000.000 đồng; ông Phan Văn Th yêu cầu bị cáo bồi thường 1.000.000 đồng. Do xe mô tô của anh Đoàn Văn C có giá trị thời điểm bị chiếm đoạt là 300.000 đồng; xe mô tô của bà Liên có giá trị 1.000.000 đồng; xe ông Phan Văn Th có giá trị 1.000.000 đồng. Do đó, căn cứ các Điều 584, 585, 586, 588, 589 của Bộ luật dân sự hiện hành, quy định về bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm cần buộc bị cáo bồi thường cho anh Đoàn Văn C số tiền 300.000 đồng; bồi thường cho bà Liên 1.000.000 đồng; bồi thường cho ông Thế 1.000.000 đồng.
Đối với những bị hại còn lại là Võ Sỹ T, Nguyễn Văn S, Trần Tuấn Ph không yêu cầu bồi thường nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[8] Về các vấn đề khác trong vụ án: Đối với những người đã mua các xe mô tô do bị cáo Lãnh Văn T trộm cắp, Cơ quan điều tra đã trích xuất T đến các khu vực T bán xe mô tô nhưng không có cơ sở để xác định lý lịch những người mua do vậy không thu hồi được vật chứng. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ đề nghị xử lý sau.
Đối với người thanh niên bán ma túy trái phép cho bị cáo Lãnh Văn T tại khu vực cầu Tham Rớt, thuộc khu phố Hòa Vinh 2, phường Thành Tâm, thị xã Chơn Thành, theo lời khai của T thì không đủ cơ sở để xác định nhân thân người thanh niên bán ma túy cho T sử dụng trái phép, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ đề nghị xử lý sau.
[9] Án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g, khoản 1 Điều 52; Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lãnh Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lãnh Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/9/2023.
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 588, 589 Bộ luật dân sự 2015 Buộc bị cáo bồi thường cho anh Đoàn Văn C số tiền 300.000 đồng ( Ba trăm nghìn đồng); bồi thường cho bà Nguyễn Thùy L số tiền 1.000.000 đồng ( Một triệu đồng) ; bồi thường cho ông Phan Văn Th số tiền 1.000.000 đồng ( Một triệu đồng);
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lãnh Văn T phải chịu 200.000 đồng ( hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Lãnh Văn T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2024/HS-ST
Số hiệu: | 12/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về