Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 12/2023/HS-ST NGÀY 21/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2023/TLST- HS ngày 13 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2023/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 02 năm 2023, đối với:

*. Bị cáo: V.X.S, sinh năm 1987 tại Bắc Ninh; ĐKHK và cư trú: Thôn Nhiêu Đậu, xã Lâm Th, huyện Lương T, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch:Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông V.V.C và bà Đ.T.L; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là thứ hai.

Nhân thân: Ngày 26/11/2011 UBND huyện Lương T, tỉnh Bắc Ninh ra Quyết định số 1466 đưa vào Trung tâm cai nghiện giáo dục dạy nghề hướng thiện thời hạn 02 năm (tháng 8 năm 2013, S chấp hành xong).

Tiền án:

+ Bản án số 20/HSST/2014 ngày 28/5/2014 của Toà án nhân huyện Lương T, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" (bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/5/2016, đã chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm, chưa chấp hành hình phạt bổ sung là phạt tiền (hiện chưa xoá án tích).

+ Bản án số 15/HSST/2019 ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" trị giá tài sản 8.000.000đồng (bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/4/2022, chưa chấp hành phần án phí hình sự sơ thẩm - Bản án xác định tái phạm).

+ Bản án số 63/HSST/2019 ngày 01/3/2019 của Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" trị giá tài sản 17.140.000đồng (bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/4/2022, chưa chấp hành phần án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm, chưa chấp hành tiền bồi thường dân sự do bị hại chưa có đơn yêu cầu thi hành án - Bản án xác định tái phạm).

+ Bản án số 14/HSST/2019 ngày 22/3/2019 của Toà án nhân dân huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương xử phạt 11 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" trị giá tài sản 6.000.000đồng (bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/4/2022, chưa chấp hành phần án phí hình sự sơ thẩm - Bản án xác định tái phạm).

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt từ ngày 22/11/2022 hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương (có mặt).

*. Bị hại: Ông N.B.T, sinh năm 1971 và bà N.T.N, sinh năm 1969. Địa chỉ: Thôn Thạch L, xã Thạch L, huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương.

(Vắng mặt tại phiên tòa - có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Ông L.V.V, sinh năm 1962 và bà N.T.L1, sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn Phượng Hoàng, xã Cẩm H, huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương.

(Vắng mặt tại phiên tòa - có đơn xin xét xử vắng mặt).

*. Người làm chứng: Ông N.B.U; bà Đ.T.L. (Đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài L có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mục đích trộm cắp tài sản để lấy tiền chi tiêu nên trong tháng 11/2022, V.X.S đã thực hiện 02 hành vi trộm cắp tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Trưa ngày 14/11/2022, V.X.S điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 34H1- X (mượn của bà Đ.T.L - là mẹ S) đi từ nhà đến địa bàn huyện Cẩm Gi mục đích tìm tài sản sơ hở trộm cắp. Khoảng 12 giờ cùng ngày, S đi đến khu vực lều ao cá của ông N.B.U ở thôn Thạch L, xã Thạch L, huyện Cẩm Gi thấy trong sân có chiếc xe lôi cải tiến bằng kim loại, trong thùng xe đựng một số dụng cụ gồm: 01 bộ ba lăng xích bằng kim loại; 02 ống tuýp kim loại, dài 2,08m; 03 ống tuýp kim loại dài 2,65m (cột chống ba lăng xích), 02 chiếc xẻng dài 1,3m, lưỡi bằng kim loại, cán xẻng bằng tre; 01 chiếc cuốc bằng kim loại dài 1,15m; 01 búa tạ, phần đầu búa bằng kim loại, tay cầm bằng tre dài 70cm; 02 chiếc mai bằng kim loại, dài 1,45m; 02 chiếc móc kim loại và 01 kéo cắt đất bằng kim loại. Đây là tài sản của ông N.B.T và bà N.T.N ở thôn Thạch L, xã Thạch L, huyện Cẩm Gi sử dụng để bốc hót mồ mả và để nhờ ở khu vực ao cá nhà ông U. S quan sát xung quanh không có người nên đi bộ vào trong sân, dùng hai tay cầm vào càng xe cải tiến kéo ra ngoài đường. S đặt thanh ngang của càng xe cải tiến lên yên xe môtô rồi kéo xe cải tiến cùng các dụng cụ trên về nhà cất giấu. Sau đó, S lấy 02 chiếc móc kim loại, 01 chiếc kéo kim loại dùng cắt đất và chiếc xe cải tiến đến cửa hàng thu mua phế L ở mặt đường Quốc lộ 38 thuộc xã Ngọc Liên, huyện Cẩm Gi bán cho một người phụ nữ (không biết tên, địa chỉ) được 500.000đồng, S đã chi tiêu cá nhân hết, các tài sản trộm cắp khác S cất giấu ngoài vườn nhà S.

Vụ thứ hai: Trưa ngày 21/11/2022, S điều khiển xe môtô biển kiểm soát 34H1- X đi từ nhà đến địa bàn huyện Cẩm Gi mục đích tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, S đi đến nhà ông L.V.V ở thôn Phượng Hoàng, xã Cẩm H, huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương thấy 01 chiếc xe lôi cải tiến bằng kim loại của ông V và bà N.T.L1, (vợ ông V) để ngoài cổng. Quan sát xung quanh không có người, S dựng xe môtô ở ngoài đường, đi bộ đến chiếc xe cải tiến cầm vào càng xe kéo ra ngoài đường. S đặt thanh ngang của càng xe lên yên xe môtô rồi kéo về nhà. Khi S đi đến khu vực xã Thạch L, huyện Cẩm Gi thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Gi và Công an xã Thạch L phát hiện, quản lý: 01 xe cải tiến bằng khung kim loại bắn tấm tôn, kích thước thùng xe 1,0m x 1,66m x 0,55m, phần càng xe dài 70m; 01 chiếc xe môtô, nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ, biển kiểm soát 34H1- X.

Ngày 21/11/2022, ông N.B.T và L.V.V đã trình báo việc bị trộm cắp tài sản và đề nghị Cơ quan CSĐT Công an huyện Cẩm Gi điều tra làm rõ.

Ngày 21/11/2022, Cơ quan điều tra quản lý: 02 chiếc mai bằng kim loại, dài 1,45m; 01 búa tạ dài 70cm, cán bằng tre, đầu bằng kim loại; 03 chiếc ống tuýp sắt phi 48, dài 2,65m, một đầu gắn tấm kim loại để làm chân đế; 02 chiếc xẻng dài 1,3m, cán bằng tre, lưỡi xẻng dài 25cm; 01chiếc cuốc bằng kim loại dài 1,15m; 02 ống tuýp kim loại, dài 2,08m; 01 bộ ba lăng xích gồm dây xích và đầu móc do V.X.S tự nguyện giao nộp.

Kết luận định giá tài sản số 46/KL- HĐĐG- TTHS ngày 28/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Cẩm Gi, kết luận: Đối với vụ Trộm cắp tài sản xảy ra ngày 14/11/2022: 01 xe cải tiến bằng khung kim loại, kích thước thùng xe: 1,2m x 1,7m x 0,55m, càng xe dài khoảng 1,5m, đã qua sử dụng, trị giá 500.000đồng; 01 bộ ba lăng xích bằng kim loại, trị giá 200.000đồng; 02 ống tuýp kim loại phi 48, dài 2,08m, trị giá 200.000đồng;

03 ống tuýp kim loại phi 48, dài 2,65m, trị giá 150.000đồng; 02 xẻng dài 1,3m, lưỡi bằng kim loại, cán bằng tre, trị giá 180.000đồng; 01 chiếc cuốc dài 1,15m, lưỡi cuốc và cán bằng kim loại, trị giá 80.000đồng; 01 búa tạ dài 70cm, phần đầu búa bằng kim loại, cán bằng tre, trị giá 50.000đồng; 02 chiếc mai bằng kim loại, dài 1,45m, trị giá 60.000đồng; 01 kéo kim loại dùng để cắt đất, trị giá 50.000đồng; 02 móc kim loại, trị giá 50.000đồng. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 1.520.000đồng. Đối với vụ Trộm cắp tài sản xảy ra ngày 21/11/2022: 01 xe cải tiến bằng khung kim loại bắn tấm tôn, kích thước thùng xe 1,0m x1,66m x 0,55m, phần càng xe dài 70cm, đã qua sử dụng, trị giá 560.000đồng.

Tổng trị giá tài sản trộm cắp của 02 vụ là: 2.080.000đồng.

Ngày 23/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Gi đã trả cho ông L.V.V xe cải tiến bằng khung kim loại bắn tấm tôn, kích thước thùng xe 1,0m x 1,6m x 0,55m, phần càng xe dài 70cm, hai bánh bằng cao su bơm hơi. Trả cho ông N.B.T 01 bộ ba lăng xích bằng kim loại; 02 ống tuýp kim loại Ø48 dài 2,08m; 03 ống tuýp kim loại Ø48 dài 2,65m; 02 xẻng đào đất dài 1,3m lưỡi bằng kim loại, cán bằng tre; 01 chiếc cuốc đất dài 1,15m, có lưỡi cuốc và cán bằng kim loại; 01 búa tạ dài 70cm, phần đầu búa bằng kim loại, cán bằng tre; 02 chiếc mai đào đất bằng kim loại dài 1,45m; Ngày 25/12/2022 trả lại cho bà Đ.T.L 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ đen, biển kểm sát 34H1 - X.

Quá trình điều tra, V.X.S khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 10/01/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Gi truy tố V.X.S về tội "Trộm cắp tài sản"quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến hay khiếu nại về Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá. Bị cáo xác định Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Gi truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng.

Quan điểm của bị hại ông T, bà N (thông qua đơn xin xét xử vắng mặt): Quá trình điều tra đã nhận lại tài sản là 01 bộ ba lăng xích bằng kim loại; 02 ống tuýp kim loại đường kính 48cm dài 2,08m; 03 ống tuýp kim loại đường kính 48cm dài 2,65m; 02 xẻng đào đất dài 1,3m; 01chiếc cuốc dài 1,15m; 01 búa tạ dài 70cm, đầu búa bằng kim loại cán bằng tre; 02 mai đào đất dài 1,45m. Đối với 01xe cải tiến bằng khung kim loại, kích thước thùng xe 1,2m x 1,7m x 0.55m càng xe dài khoảng 1,5m hai bánh bằng cao su bơm hai; 01 kéo kim loại dùng để cắt đất; 02 móc kim loại mà bị cáo đã trộm cắp và bán đến nay không thu hồi được. Bị hại tự nguyện cho bị cáo, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường. Về hình sự: đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

Quan điểm của bị hại ông V, bà L1 (thông qua đơn xin xét xử vắng mặt): Đã nhận lại tài sản mà bị cáo chiếm đoạt và tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự. Về hình sự: đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo của pháp luật.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Gi thực hành quyền công tố, trình bày luận tội: Giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo V.X.S và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo V.X.S phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Về hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s, r khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo V.X.S từ 24 tháng đến 27 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 22/11/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra vấn đề giải quyết.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo V.X.S phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng trong phiên tòa: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài L trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Gi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Gi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài L khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 14/11/2022, tại thôn Thạch L, xã Thạch L, huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương, V.X.S lợi dụng sơ hở lén lút trộm cắp 01 chiếc xe cải tiến bằng kim loại và các dụng cụ: 01 bộ ba lăng xích; 02 ống tuýp kim loại dài 2,08m; 03 ống tuýp kim loại dài 2,6m; 02 chiếc xẻng bằng kim loại dài 1,3m; 01 chiếc cuốc bằng kim loại dài 1,15m; 01 búa tạ, phần đầu búa bằng kim loại, cán tre dài 70cm; 02 chiếc mai bằng kim loại dài 1,45m; 02 móc kim loại và 01 kéo cắt bằng kim loại của ông N.B.T và bà N.T.N ở thôn Thạch L, xã Thạch L, huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 1.520.000đồng.

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 21/11/2022 tại thôn Phượng Hoàng, xã Cẩm H, huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương, V.X.S lợi dụng sơ hở lén lút trộm cắp 01 chiếc xe kéo cải tiến, trị giá 560.000đồng của ông L.V.V và bà N.T.L1 ở thôn Phượng Hoàng, xã Cẩm H, huyện Cẩm Gi.

Tổng trị giá tài sản bị cáo trộm cắp hai vụ là 2.080.000đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi này không những vi phạm pháp luật mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong việc quản lý, bảo vệ tài sản trong nhân dân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc lén lút và lợi dụng sự sơ hở quản lý tài sản của người khác nhằm chiếm đoạt là vi phạm pháp luật nhưng do cần tiền tiêu xài, muốn biến tài sản của người khác thành tài sản của mình mà không phải bỏ công sức lao động, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo là người đã bị kết án tại các bản án số 15/HSST/2019 ngày 28/02/2019 của Toà án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh về tội "Trộm cắp tài sản"; bản án số 63/HSST/2019 ngày 01/3/2019 của Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tội"Trộm cắp tài sản" và bản án số 14/HSST/2019 ngày 22/3/2019 của Toà án nhân dân huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương về tội "Trộm cắp tài sản", các bản án này được xác định đối với bị cáo là tái phạm. Bị cáo chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý do đó hành vi của bị cáo được xác định là tái phạm nguy hiểm. Hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Gi , tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Mặc dù, bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm nguồn sống chính nên Hội đồng xét xử xác định bị cáo không phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

[3]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý: Bị cáo là người có nhân thân xấu.Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện 02 hành vi chiếm đoạt tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là "Phạm tội hai lần trở lên" theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đã tự thú khai nhận với cơ quan điều tra về hành vi trộm cắp ngày 14/11/2022, giá trị tài sản bị cáo trộm cắp được không lớn. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm h, s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xem xét áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt biết tôn trọng, chấp hành pháp luật và phòng ngừa chung cho toàn xã hội cũng như đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội này.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đang bị tạm giam, không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Ông L.V.V, bà N.T.L1 đã nhận lại tài sản mà bị cáo chiếm đoạt và tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bị hại ông N.B.T, bà N.T.N tự nguyện cho bị cáo số tài sản mà bị cáo chiếm đoạt, bị cáo đã bán không thu hồi được . Xét việc ông T, bà N cho bị cáo là tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ đen, biển kiểm soát 34H1 - X là phương tiện bị cáo mượn sử dụng để đi trộm cắp. Quá trình xác minh chiếc xe đó là tài sản hợp pháp của bà Đ.T.L (mẹ bị cáo S) mua từ năm 2018 để sử dụng vào việc đi lại, sau khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào tháng 4 năm 2022 trở về địa phương thì bà L cho bị cáo mượn để sử dụng làm phương tiện đi lại. Bà L không biết bị cáo sử dụng chiếc xe máy trên để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản nên ngày 25/11/2022 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Gi đã trả lại tài sản cho bà L là hợp pháp nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Đối với chiếc xe cải tiến bằng khung kim loại, kích thước thùng xe: 1,2m x 1,7m x 0,55m, càng xe dài khoảng 1,5m, hai bánh bằng cao su bơm hơi; 01 kéo kim loại dùng để cắt đất; 02 móc kim loại là vật chứng trong vụ trộm cắp tài sản ngày 14/11/2022 tại thôn Thạch L, xã Thạch L, huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương. Số tài sản này bị cáo đã bán cho một người thu mua phế L không quen biết ở khu vực Quốc lộ 38 thuộc địa phận xã Ngọc Liên, huyện Cẩm Gi, tỉnh Hải Dương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Gi đã ra thông báo truy tìm vật chứng nhưng chưa thu hồi được nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Số tiền 500.000 đồng là tiền bị cáo bán một số tài sản trộm cắp được, số tiền đó bị cáo đã sử dụng để tiêu xài cá nhân hết. Tuy nhiên bị hại không yêu cầu bị cáo phải trả lại và tự nguyện cho bị cáo trị giá tài sản trộm cắp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7]. Các vấn đề khác: Đối với bà Đ.T.L không biết bị cáo sử dụng chiếc xe môtô đi trộm cắp tài sản nên không có căn cứ xử lý.

Đối với người phụ nữ mà bị cáo bán các tài sản trộm cắp, không xác định được tên, địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s, r khoản 1Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo V.X.S phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt: Bị cáo V.X.S 26 (Hai mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 22/11/2022.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo V.X.S phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2023/HS-ST

Số hiệu:12/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Giàng - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về