TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 12/2023/HS-PT NGÀY 16/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 180/2022/TLPT-HS ngày 07 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 153/2022/HS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn H, sinh ngày 20/5/1993 tại thành phố Q, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Tổ 47, khu phố 9, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1965 và bà Ung Thị Kim L, sinh năm: 1967; vợ: Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm: 1994 (đã ly hôn), con: Có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, còn có bị cáo Nguyễn Văn V không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 15/01/2022, Nguyễn Văn H gặp Nguyễn Văn V tại khu vực gần nhà ở phường Đ, thành phố Q và H rủ V tối đi tìm sắt bán lấy tiền tiêu xài; V đồng ý và nói với H qua Khu kinh tế Nhơn Hội, thành phố Q vì V để ý thấy bên đó có nhiều công ty đang xây dựng.
Khoảng 21 giờ cùng ngày, V điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 77L1- 674.XX chở H đi dạo qua nhiều tuyến đường trong Khu kinh tế Nhơn Hội để tìm nơi có sắt để sơ hở nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Lúc này, anh Phan Văn Đ (bảo vệ tại Khu kinh tế Nhơn Hội) thấy nghi vấn nên đã theo dõi và đồng thời báo sự việc cho Đồn Công an Khu kinh tế Nhơn Hội. Khi V và H đi vào đường N63 (thuộc Khu kinh tế Nhơn Hội) thì thấy Công ty Trách nhiệm hữu hạn T đang xây dựng nhà xưởng. Cả hai dừng xe lại, đi bộ băng qua đồi cát khoảng 40m đến chỗ tường rào thì thấy có 740 cây sắt loại phi 6, hình chữ L, dài 60cm, khối lượng 114kg và 120 đai sắt loại phi 6, hình chữ nhật, khối lượng 18kg đang bỏ trong 04 bao xi măng. Sau đó, cả hai tìm 02 xe cộ rùa và lén lút bỏ 04 bao xi măng đựng số sắt nói trên lên để đẩy ra chỗ dựng xe mô tô với mục đích chở đi cất giấu để tìm nơi tiêu thụ. Khi cả hai đang đẩy tài sản trộm cắp được băng qua đồi cát thì bị Đồn Công an Khu kinh tế Nhơn Hội cùng lực lượng bảo vệ phát hiện, bắt giữ đưa về trụ sở để làm rõ hành vi trộm cắp.
Ngày 21/3/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Q đã kết luận: 740 cây sắt loại phi 6, hình chữ L, dài 60cm, khối lượng 114kg trị giá 2.131.000 đồng; 120 đai sắt loại phi 6, hình chữ nhật, khối lượng 18kg trị giá 336.600 đồng; 02 xe cộ rùa (bằng sắt, có bánh đẩy) trị giá 460.000 đồng. Tổng giá trị tài sản V và H đã trộm cắp là 2.927.600 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 153/2022/HS-ST ngày 22/7/2022, Tòa án nhân dân thành phố Q đã căn cứ vào khoản 1 Điều 173 và các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn V, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 05/8/2022, bị cáo Nguyễn Văn H kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, bị cáo H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nói trên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử sửa phần căn cứ pháp luật tại phần quyết định của bản án sơ thẩm: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn V; áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i và s khoản 1 Điều 51, khoản 3 Điều 54, Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với các chứng cứ khác nên có đủ cơ sở xác định:
Khoảng 21 giờ ngày 15/01/2022, Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn V đã có hành vi lén lút vào khu vực đang xây dựng nhà xưởng của Công ty Trách nhiệm hữu hạn T (thuộc Khu kinh tế Nhơn Hội) trộm cắp 740 cây sắt loại phi 6, hình chữ L, dài 60cm, khối lượng 114kg, 120 đai sắt loại phi 6, hình chữ nhật, khối lượng 18kg và 02 xe cộ rùa. Khi cả hai đang đẩy tài sản trộm cắp được đến chỗ dựng xe máy để chở đi cất giấu thì bị Đồn Công an Khu kinh tế Nhơn Hội cùng lực lượng bảo vệ phát hiện, bắt giữ đưa về trụ sở để làm rõ hành vi trộm cắp.
Ngày 21/3/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Q đã kết luận tổng giá trị tài sản Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn V đã trộm cắp là 2.927.600 đồng.
Do đó, Bản án hình sự sơ thẩm số 153/2022/HS-ST ngày 22/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Q đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là phù hợp.
[2] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn H, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương.
Trong vụ án này, bị cáo H vừa là người khởi xướng, rủ rê và là người thực hành nên Toà án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 04 tháng tù là phù hợp.
Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, giá trị tài sản trộm cắp không lớn, tài sản trộm cắp được thu giữ lại và đã trả lại cho bị hại nên chưa có hậu quả xảy ra, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói trên, xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội và theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo đủ điều kiện được hưởng án treo.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo cũng đủ có tác dụng răn đe và ngăn ngừa tội phạm.
[3] Tại phần quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 153/2022/HS-ST ngày 22/7/2022, Tòa án nhân dân thành phố Q đã áp dụng chung căn cứ pháp luật đối với 02 bị cáo, không rách riêng việc áp dụng căn cứ pháp luật đối với từng bị cáo là không phù hợp vì trong vụ án này, chỉ có bị cáo Nguyễn Văn V bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự và chỉ có bị cáo Nguyễn Văn H được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, sửa phần căn cứ pháp luật tại phần quyết định của bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị cáo Nguyễn Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H, sửa bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn V 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/4/2022.
3. Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (Ngày 16/02/2023).
Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Ủy ban nhân dân phường Đống Đa, thành phố Q, tỉnh Bình Định giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn H không phải chịu.
5. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 12/2023/HS-PT
Số hiệu: | 12/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về