TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 120/2023/HS-ST NGÀY 14/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 6 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2023/TLST-HS, ngày 30 tháng 3 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 175/2023/QĐXXST-HS, ngày 01 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Phạm Đức T, sinh năm 1986, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số AA, đường H, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (thực tế không có cư trú tại địa phương do nhà đã bị giải tỏa từ năm 2010); nơi ở: Không ổn định; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn X và bà Nguyễn Thị Mỹ N; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 03/11/2021, bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 22/02/2022, chưa chấp hành quyết định khác, án tích chưa được xóa); tiền sự: Ngày 23/4/2019, bị Công an phường Hiệp Tân, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (chưa chấp hành quyết định, chưa được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính) và ngày 24/5/2021, bị Công an Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (chưa chấp hành quyết định, chưa được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); nhân thân: Ngày 18/8/2012, bị Công an phường Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản nhưng chưa tới mức truy cứu trách nhiệm hình sự” (đã chấp hành xong quyết định ngày 30/8/2012, được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); ngày 29/11/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An xử phạt 01 năm tù về “Tội trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 09/8/2014 và quyết định khác vào các ngày 07, 21 tháng 01 năm 2015; riêng về trách nhiệm dân sự, chưa thụ lý thi hành án nên án tích đã được xóa); ngày 25/4/2017, bị Công an Phường 8, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong quyết định ngày 26/4/2017, được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); ngày 22/5/2019, bị Công an Phường 11, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (đã chấp hành xong quyết định ngày 22/5/2019, được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); ngày 19/01/2020, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Phường 5, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đưa người nghiện ma túy vào Cơ sở xã hội Thanh Thiếu Niên 2 để quản lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (đến ngày 04/3/2020, đã có Quyết định hủy bỏ Quyết định này do T có nơi cư trú ổn định nên được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính); bị tạm giữ ngày 03-12-2022 (trong trường hợp khẩn cấp), tạm giam ngày 12-12-2022 “có mặt”.
*Bị hại: Chị Phan Thị Mỹ H, sinh năm 1998. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Nhà số 171, đường B L, phường B H H A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh “xin vắng mặt”.
*Các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Châu Thị Mỹ D; sinh năm 1988. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số A, đường T V K, Phường H, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Nhà số C, đường T Đ B, phường T A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh “xin vắng mặt”;
2. Anh Hồ Xuân Qu; sinh năm 1982. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số DC, đường Tr N, K P 6, phường A K, thành phố T Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Nhà số 639, đường H G, Phường L, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh “xin vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 02/12/2022, Phạm Đức T điều khiển xe môtô Yamaha Exciter, màu xanh đen, biển số 59C2-xxxxx đến Quán Karaoke Đ tại số 323, đường Mã Lò, phường A, quận Bình Tân để xin việc làm. Lúc vào, T thấy có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max, màu vàng, 128GB của chị Phan Thị Mỹ H (tiếp tân của quán) để trên bàn quầy tiếp tân nhưng không có ai trông coi nên T nảy sinh ý định lấy chiếc điện thoại di động này để bán kiếm tiền tiêu xài. Khi đó, T dùng tay phải lấy chiếc điện thoại của chị H cất vào trong túi quần rồi ra xe chạy tẩu thoát; ngay lúc này, tuy chị H đi từ trong nhà vệ sinh ra có nhìn thấy T bỏ chạy ra ngoài, còn chiếc điện thoại di động thì bị mất nhưng không dám tri hô lên. Đến khoảng 15 giờ 30 phút ngày 02/12/2022, T đến cửa hàng điện thoại di động X tại số 639, đường H, Phường 11, Quận 6 do anh Hồ Xuân Qu làm chủ bán chiếc điện thoại di động này được 3.000.000 đồng (anh Qu không biết điện thoại di động này do T chiếm đoạt được của người khác mà có). Có tiền, T đến Bến xe Quận 8 trả nợ cho tên H (không rõ lai lịch) hết 2.500.000 đồng rồi ăn uống hết 179.000 đồng nên còn lại 321.000 đồng. Qua định vị chiếc điện thoại di động, kết hợp với hình ảnh, đặc điểm của T và chiếc xe môtô biển số 59C2-xxxxx được camera của quán lưu giữ, chị H cùng với gia đình đi tìm T cho đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì phát hiện T đang điều khiển xe chạy trước nhà số 2, đường Tên Lửa, phường An Lạc A, quận Bình Tân nên chặn xe lại đưa T đến Công an phường A trình báo. Sau khi tiếp nhận sự việc và lập hồ sơ ban đầu, Công an phường A đã chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, T đã khai nhận toàn bộ hành vi như vừa mới nêu (theo kết luận định giá tài sản, chiếc điện thoại di động của chị H trị giá 14.000.000 đồng).
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Đức T đã khai: Trong lúc bị cáo đến Quán Karaoke Đ để xin việc làm thì nhìn thấy có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max, màu vàng, 128GB của chị Phan Thị Mỹ H để trên bàn quầy tiếp tân nhưng không có ai trông coi nên bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt để bán lấy tiền tiêu xài. Khi đó, bị cáo dùng tay phải lấy chiếc điện thoại di động của chị H cất vào trong túi quần rồi ra xe chạy tẩu thoát. Sau đó, bị cáo đến cửa hàng điện thoại di động X gặp anh Hồ Xuân Qu nói chiếc điện thoại di động này là của bị cáo và bán được 3.000.000 đồng. Xong, bị cáo đến Bến xe Quận 8 trả nợ cho tên Hiếu (không rõ lai lịch) hết 2.500.000 đồng và ăn uống hết 179.000 đồng nên còn lại 321.000 đồng cho đến khi đang chạy xe trên đường bị chị H bị phát hiện bắt giữ lại đưa đến Công an giải quyết nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về giá trị tài sản đã chiếm đoạt của chị H và trách nhiệm dân sự; còn về vật chứng, chỉ yêu cầu trả lại chiếc xe môtô biển số 59C2-xxxxx cho chị Châu Thị Mỹ D.
Bản cáo trạng số: 95/CT-VKS, ngày 24 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phạm Đức T ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Phạm Đức T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản trị giá 14.000.000 đồng của chị Phan Thị Mỹ H nhằm mục đích có tiền để tiêu xài cho cá nhân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; đồng thời, bị cáo đã có 01 lần bị kết án, chưa được xóa án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm”; ngoài ra, bị cáo còn có thêm nhân thân xấu khác nữa nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm nên không có ý kiến; còn về vật chứng, đề tịch sung quỹ Nhà nước số tiền 321.000 đồng, tịch thu tiêu hủy 01 cái áo sơ mi, 01 cái quần Jean và 01 cái nón bảo hiểm; giao trả lại cho chị Châu Thị Mỹ D 01 chiếc xe môtô biển số 59C2- xxxxx.
Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố; còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Phạm Đức T tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào khoảng 13 giờ 40 phút ngày 02/12/2022, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max, màu vàng, 128GB của chị Phan Thị Mỹ H tại bàn quầy tiếp tân-Quán Karaoke Đ, số 323, đường Mã Lò, phường A, quận Bình Tân. Theo Kết luận định giá tài sản số: 622/KL- HĐĐGTS, ngày 08/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự quận Bình Tân thì, chiếc điện thoại di động của chị H trị giá 14.000.000 đồng. Do đó, bị cáo Phạm Đức T đã phạm “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại; các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; hình ảnh trích xuất từ camera ghi lại tại hiện trường và được bị cáo thừa nhận; biên bản, bản ảnh của bị cáo diễn tả hành vi phạm tội; vật chứng đã thu hồi được, kết luận định giá tài sản…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng đối với anh Hồ Xuân Qu, tuy có mua chiếc điện thoại di động của bị cáo bán nhưng anh hoàn toàn không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên anh không bị xử lý là có căn cứ.
[4] Xét bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người khác, thực hiện hành vi chiếm đoạt trái phép tài sản là trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo tuy ít nghiêm trọng nhưng đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có tiền để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân. Đồng thời, bị cáo đã có 01 lần bị kết án, chưa được xóa án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng là “Tái phạm”, theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; ngoài ra, bị cáo còn đã có rất nhiều lần bị các cơ quan chức năng Nhà nước xử lý về hành vi vi phạm pháp luật khác như đã nêu trên nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Xét tại phiên tòa hôm nay, tuy bị hại là chị Phan Thị Mỹ H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Hồ Xuân Qu đều có đơn xin vắng mặt, nhưng theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và nội dung đơn thì: Chị H đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm; còn anh Qu, tuy có mua chiếc điện thoại di động của bị cáo bán giá 3.000.000 đồng và sau đó đã bị thu hồi, nhưng do anh không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền này nên tất cả không xét.
[7] Về vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max, màu vàng, 128GB của chị Phan Thị Mỹ H, Cơ quan điều tra đã thu hồi giao trả lại cho chị H nên không xét. Đối với số tiền 321.000 (ba trăm hai mươi mốt nghìn) đồng là tiền do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước. Còn đối với chiếc xe môtô Yamaha Exciter, màu xanh đen, biển số 59C2- xxxxx, số máy 116945, số khung 104838 (trong cốp xe không có chứa đồ vật hay tài sản gì, tình trạng đã cũ, qua sử dụng; đây là xe môtô đương sự Phạm Đức T dùng để làm phương tiện trộm cắp tài sản), do Cty TNHH TMDV Đ đứng tên sở hữu và đã bán lại cho anh Vũ Văn Quân là chủ Cửa hàng xe gắn máy Tiến Quân rồi sau đó anh Quân bán lại cho chị Châu Thị Mỹ D; tuy chị D chưa làm thủ tục sang tên xe, nhưng do xe có nguồn gốc hợp pháp và chị D không có lỗi khi cho bị cáo mượn xe nên cần giao trả xe lại cho chị D. Riêng đối với 01 cái áo sơ mi dài tay màu xanh da trời, 01 cái quần jean màu đen xám và 01 cái nón bảo hiểm màu đỏ sọc trắng có chữ “itel” (Tất cả đều đã cũ, qua sử dụng; đây là quần áo và nón bảo hiểm mà đương sự Phạm Đức T đã mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản) là của bị cáo và không có yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[8] Bị cáo Phạm Đức T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Phạm Đức T 02 (hai) năm tù về “Tội trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 03-12-2022.
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 321.000 (ba trăm hai mươi mốt nghìn) đồng. Giao trả lại cho chị Châu Thị Mỹ D 01 chiếc xe môtô Yamaha Exciter, màu xanh đen, biển số 59C2-xxxxx, số máy 116945, số khung 104838 (trong cốp xe không có chứa đồ vật hay tài sản gì, tình trạng đã cũ, qua sử dụng; đây là xe môtô đương sự Phạm Đức T dùng để làm phương tiện trộm cắp tài sản). Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 cái áo sơ mi dài tay màu xanh da trời, 01 cái quần jean màu đen xám và 01 cái nón bảo hiểm màu đỏ sọc trắng có chữ “itel” (Tất cả đều đã cũ, qua sử dụng; đây là quần áo và nón bảo hiểm mà đương sự Phạm Đức T đã mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản).
(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK23/109TAM, ngày 16/3/2023. Riêng số tiền 321.000 đồng đã được Công an quận Bình Tân gửi vào Kho bạc Nhà nước quận Bình Tân theo Giấy nộp tiền, Lệnh thanh toán và Chứng từ giao dịch ngày 24/02/2023 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt Nam-Chi nhánh Bình Tân)
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Phạm Đức T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Bị cáo Phạm Đức T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại chị Phan Thị Mỹ H; các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Châu Thị Mỹ D và anh Hồ Xuân Qu vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 120/2023/HS-ST
Số hiệu: | 120/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về