Bản án về tội trộm cắp tài sản số 119/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 119/2023/HS-PT NGÀY 08/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 102/2023/TLPT-HS ngày 28 tháng 7 năm 2023. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thanh S, sinh năm 1995 tại Long An; nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện M, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1969 và bà Phạm Thị D, sinh năm 1970; đang chung sống như vợ chồng với Trần Thị Hằng N, sinh năm 1996; tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 16-11-2022, bị Trưởng Công an xã B xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thi hành xong ngày 16-11-2022;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 09-02-2023, chuyển tạm giam từ ngày 15-02- 2023, đến ngày 24-02-2023 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, vụ án còn có 01 bị cáo khác, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

- Lần 1: Vào khoảng 02 giờ 00 phút ngày 16-12-2022, bị cáo Nguyễn Thanh S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 50Y1-X chở bị cáo Đinh Văn Cao T1 ngồi phía sau đi tìm nơi để kích cá trên địa bàn huyện M. Trên đường đi, cả hai phát hiện tại chòi canh ruộng của ông Nguyễn Văn T2 thuộc khu vực ấp A, xã B, huyện M có 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius, màu đen xanh, biển kiểm soát 62T1-096.42 của ông T2 dựng bên ngoài chòi không có người trông coi, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt để mang đi cầm cố lấy tiền chia nhau tiêu xài, nên S ngừng xe lại. Bị cáo S xuống xe giả vờ mang dụng cụ kích điện đi chích cá xung quanh chòi để cảnh giới cho bị cáo T1 vào lấy xe. Khi T1 dẫn xe đi ra khởi chòi khoảng 100 mét, T1 mở cốp xe phát hiện có 01 cái ví bằng da nên mở ra ra xem, bên trong có 01 căn cước công dân, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy phép lái xe, 01 giấy xuất ngũ cùng mang tên Nguyễn Văn T2 và 600.000 đồng bỏ vào túi quần rồi vứt bỏ cái ví da (không xác định được vị trí đã vứt) và sau đó không nói lại cho bị cáo S biết, giữ lại tiền tự tiêu xài cá nhân. Sau đó, bị cáo T1 điều khiển xe vừa chiếm đoạt được đến tiệm “Cầm đồ Mạnh Khỏe Re” do ông Nguyễn Phước T3 làm chủ để cầm cố xe cùng giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy phép lái xe với số tiền 4.200.000 đồng. Các bị cáo dùng một phần tiền để mua ma túy cùng sử dụng, còn lại chia nhau tiêu xài cá nhân hết.

- Lần 2: Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 07-02-2023, T1 nhắn tin qua mạng Zalo cho S rủ đi tìm tài sản chiếm đoạt và được S đồng ý, hẹn điểm gặp nhau tại Trạm cấp nước thuộc ấp A, xã B, huyện M để cùng đi. T1 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 62K4-5272 đến Trạm cấp nước đậu xe tại đây, bị cáo S sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 50Y1-X chở bị cáo T1 về nhà bị cáo S lấy dụng cụ kích cá mang theo để ngụy trang, rồi cả hai cùng chở nhau đi tìm tài sản. Đến khoảng 03 giờ 00 phút ngày 08-02-2023, cả hai đi đến khu vực ấp B, xã B, huyện M phát hiện nhà của ông Ngô Văn P không khóa cửa, bên trong nhà có 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại Sirius F1, màu đen, biển kiểm soát 62T1.153.49 không có người trông coi, ổ khóa xe còn cắm chìa khóa trên đó. Bị cáo S giả vờ đi chích cá xung quanh nhà để cảnh giới, bị cáo T1 vào lấy xe dẫn ra ngoài rồi điều khiển tẩu thoát hướng về huyện Đ để tìm nơi tiêu thụ, bị cáo S điều khiển xe theo sau. Khi đi đến địa phận xã B, huyện M thì gặp lực lượng Công an xã và Bộ đội biên phòng chốt chặn, bị cáo S quay đầu xe lại, rồi bỏ xe chạy bộ tẩu thoát, bị cáo T1 vượt qua điểm chốt chặn mang xe đến tiệm “Cầm đồ Đăng Khoa” do bà Trịnh Thị M làm chủ để cầm cố xe và 01 giấy căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn T2 với số tiền 4.000.000 đồng tự tiêu xài cá nhân. Sau đó, T1 và S đến Cơ quan Công an đầu thú.

Tại các Bản kết luận định giá tài sản số 02 và 03/KLĐG cùng ngày 13-02- 2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện M đã kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius, màu đen xanh, biển kiểm soát 62T1-096.42 có trị giá 5.000.000 đồng và 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại Sirius F1, màu đen, biển kiểm soát 62T1.153.49 có trị giá 12.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An, đã xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; khoản 3 Điều 17; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thanh S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày thi hành án. Được khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam 16 (mười sáu) ngày (từ ngày 09-02-2023 đến ngày 24-02-2023).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với bị cáo còn lại, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26-6-2023 bị cáo Nguyễn Thanh S kháng cáo một phần của bản án sơ thẩm, xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thanh S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Bị cáo Nguyễn Thanh S kháng cáo đúng thời hạn và đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự, nên vụ án đủ điều kiện để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng pháp luật và mức hình phạt đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo nhưng cũng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới so với cấp sơ thẩm đã xem xét, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo. Ngoài ra, vụ án có tính chất đồng phạm, nhưng khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự là thiếu xót, cần rút kinh nghiệm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận; không phát biểu lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Nguyễn Thanh S kháng cáo đúng theo quy định của pháp luật tại các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thanh S khai nhận: Bằng hình thức đi kích điện cá vào thời điểm ban đêm, nhằm tìm tài sản là xe mô tô không có chủ sở hữu trông coi, quản lý, bị cáo S cùng với Đinh Văn Cao T1 đã chiếm đoạt 02 lần, mỗi lần 01 xe mô tô, cụ thể:

- Lần 1: Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 16-12-2022, tại khu vực ấp A, xã B, huyện M chiếm đoạt của ông Nguyễn Văn T2 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Sirius, màu đen xanh, biển kiểm soát 62T1-096.42 trị giá 5.000.000 đồng cùng giấy tờ nhân thân của ông T2 và số tiền bên trong xe là 600.000 đồng.

- Lần 2: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 08-02-2023, tại khu vực ấp B, xã B, huyện M, chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại Sirius F1, màu đen, biển kiểm soát 62T1.153.49 của ông Ngô Văn P trị giá 12.000.000 đồng.

Xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà nội dung án sơ thẩm đã nêu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là xét xử đúng người, đúng tội.

[3] Về kháng cáo giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo:

Qua xem xét tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra; vai trò của bị cáo trong vụ án; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo để tuyên phạt mức án như trên là thỏa đáng. Bị cáo kháng cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới ngoài các tình tiết đã được cấp sơ thẩm xem xét và có nhân thân xấu, nên không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo như kháng cáo của bị cáo.

[4] Vụ án này có tính chất đồng phạm, nhưng khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự là thiếu sót, cần rút kinh nghiệm. Cấp phúc thẩm bổ sung cho đúng quy định của pháp luật.

[5]. Từ căn cứ và nhận định trên, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S. Giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo như đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị.

[6] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thanh S phải chịu 200.000 đồng án phí, do kháng cáo không được chấp nhận.

[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An, về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thanh S.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; khoản 3 Điều 17; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày thi hành án. Bị cáo Nguyễn Thanh S được khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam trước là 16 (mười sáu) ngày (từ ngày 09- 02-2023 đến ngày 24-02-2023).

2. Về án phí phúc thẩm:

Áp dụng: Các Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh S phải chịu 200.000 đồng án phí.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 119/2023/HS-PT

Số hiệu:119/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về