Bản án về tội trộm cắp tài sản số 119/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 119/2022/HS-ST NGÀY 25/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân thị xã Đ mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 105/2022/TL-HSST ngày 26 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn Vũ Ngọc H; Sinh năm 2001 tại Đ, Q; nơi cư trú: khối H, phường Điện D, thị xã Đ, tỉnh Q; nghề nghiệp: đầu bếp; trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông: Lê Văn B (sống) và bà: Văn Thị M (sống); bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Ông Nguyễn Công V, sinh năm: 2005; địa chỉ: khối H, phường Điện D, thị xã Đ, tỉnh Q (vắng mặt)

- Người đại diện hợp pháp cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn N, sinh năm: 1979; địa chỉ: khối H, phường Điện D, thị xã Đ, tỉnh Q (là cha ruột ông V) (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Đình K, sinh năm: 1988; địa chỉ: khối Quảng Lăng A, phường Điện Nam Trung, thị xã Đ, tỉnh Q (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn Vũ Ngọc H, Nguyễn Công V và Đỗ Tấn V1 là bạn bè của nhau, chiều ngày 09/7/2022 H, V, V1 rủ nhau đi nhậu, đến khoảng 01h ngày 10/7/2022 thì cả ba về nhà Hoàng tại khối phố H, phường Điện D ngủ lại. Cả ba ngủ trong cùng một phòng, khoảng 02h cùng ngày, H tỉnh giấc thấy điện thoại di động của V đang để trên đầu giường thì nảy sinh ý định trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. H lén lút lấy trộm điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu trắng của V tắt nguồn rồi đem giấu ở phòng bên cạnh, đến sáng ngày 10/7/2022, V thức dậy phát hiện điện thoại bị mất nên nói V1, H tìm kiếm nhưng không có nên V ra về và đến Công an phường Điện D trình báo sự việc. Trưa cùng ngày, H đem điện thoại trộm được đến tiệm điện thoại Apple Shop tại đường T, phường Điện N, thị xã Đ do anh Trần Đình K làm chủ bán cho anh K; trên đường đi, H đã gỡ và vứt sim số, ốp lưng, riêng điện thoại H bán được số tiền 6.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân. Tại Công an phường Điện D cũng như tại Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ, Lê Văn Vũ Ngọc H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 55/HĐ.ĐG ngày 08/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Đ kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu trắng, dung lượng 64Gb, số máy Mt5A2LL/A, số sê ri FFMXW54QKPHS vào thời điểm tháng 7/2022 có giá trị 9.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 25/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ đã truy tố bị cáo Lê Văn Vũ Ngọc H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng: khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 BLHS; Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 12-15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24-30 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

Bị cáo Lê Văn Vũ Ngọc H nói lời nói sau cùng: mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tối ngày 10/7/2022, Nguyễn Công V đến nhà của Lê Văn Vũ Ngọc H ở khối phố H, phường Điện D, thị xã Đ để ngủ lại, đến khoảng 02h cùng ngày, Lê Văn Vũ Ngọc H đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xsmax màu trắng trị giá 9.500.000 đồng của Nguyễn Công V rồi đem đến bán cho anh Trần Đình K được 6.000.000 đồng để tiền tiêu xài cá nhân.

Hành vi lén lút trộm cắp tài sản có giá trị 9.500.000đ của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 173 BLHS. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng đối chiếu với tang vật vụ án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Văn Vũ Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS.

[3] Xét hành vi, tính chất tác hại, hậu quả của vụ án thì thấy: Bị cáo là thanh niên trưởng thành, có sức khỏe nhưng không lo làm ăn lại có tính tham lam nên đã vi phạm pháp luật. Lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản có giá trị tổng cộng 9.500.000đ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần xét xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra, gia đình người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, cha bị khuyết tật nặng đang hưởng trợ cấp, mẹ bị bệnh. Gia đình bị cáo có người thân tham gia cách mạng được tặng thưởng danh hiệu cao quý. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm b, i, s Khoản 1, 2 Điều 51 BLHS, HĐXX sẽ áp dụng các tình tiết này khi lượng hình đối với bị cáo.

Bị cáo có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết xử phạt tù giam đối với bị cáo mà áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo.

- Đối với anh Trần Đình K không biết điện thoại Lê Văn Vũ Ngọc H bán cho mình là tài sản do phạm tội mà có nên không xử lý.

- Đối với sim số và ốp lưng điện thoại anh Nguyễn Công V không yêu cầu nên không xử lý.

[5] Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên miễn xét. Anh Trần Đình K đã nhận lại số tiền 6.000.000đ, không có yêu cầu gì thêm nên miễn xét.

[6] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn Vũ Ngọc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng : Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn Vũ Ngọc H 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/11/2022) Giao bị cáo Lê Văn Vũ Ngọc H cho UBND phường Điện D, thị xã Đ, tỉnh Q giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Luật phí, lệ phí.

Bị cáo Lê Văn Vũ Ngọc H phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hình sự gởi đến.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 119/2022/HS-ST

Số hiệu:119/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Điện Bàn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về