TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 112/2023/HS-PT NGÀY 03/07/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 82/2023/TLPT-HS ngày 17 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Cường Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo:
NGUYỄN CƯỜNG Đ, sinh ngày xx tháng xx năm 19xx tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ xx, thôn TD, xã L, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M và bà Lê Thị Thanh T; Có vợ là Zơ Răm K (người dân tộc Cơ Tu) và 01 con sinh năm 20xx; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên toà.
* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Cường Đ: Luật sư Bùi Xuân N – Công ty luật TNHH MTV Anh Nam, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ 20 phút ngày 05/8/2022, Nguyễn Cường Đ điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter BKS: 43F1-19xxx của chị Phạm Thị H để đi làm. Khi đến đoạn đường có cột đèn chiếu sáng có in dòng chữ “XLDN PCI 16 19013” ở bên lề đường bên phải lan can bảo vệ, thuộc tổ xx, phường HB, quận C, thành phố Đà Nẵng thì phát hiện có 01 người đàn ông cột 01 con trâu thuộc sở hữu của ông Võ Văn T vào lan can bảo vệ sau đó đi xuống sông. Lúc này, Đ nảy sinh ý định trộm trâu. Đ dừng xe mô tô cách vị trí con trâu khoảng 100m rồi đi bộ đến tháo dây cột trâu và dắt đi về hướng hầm Hải Vân. Khi Đ đang dắt trâu đi thì gặp Lê Ngọc Tuấn D, anh D hỏi thì Đ nói là trâu của nhà Đ bị xổng chuồng nên dắt về. Do nghi ngờ nên anh D liên lạc với người trong thôn hỏi về việc mất trâu và sau đó giữ Đ lại rồi báo cho Công an xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đến làm việc và lập biên bản.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 133/KL-HĐĐGTS ngày 08 tháng 11 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Liên Chiểu kết luận: Giá trị của 01 con trâu cái có cân nặng 250kg là 40.000.000 đồng.
Với nội dung trên, tại Bản án sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:
Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Cường Đ 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và thông báo quyền kháng cáo bản án.
Ngày 13/3/2023, bị cáo Nguyễn Cường Đ có đơn kháng cáo với nội dung: Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, cha mẹ thường xuyên đau ốm, em của bị cáo đang đi nghĩa vụ quân sự, vợ là người dân tộc thiểu số chưa có việc làm ổn định, con còn nhỏ, bị hại đã nhận lại tài sản, có đơn bãi nại cho bị cáo, xin cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Cường Đ thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu và bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo để về lao động nuôi vợ con.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cường Đ theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.
Về nội dung: Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xử phạt bị cáo mức án 09 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi xử sơ thẩm, bị cáo bổ sung thêm tài liệu thể hiện bị cáo từng tham gia nghĩa quân sự, đã khắc phục cho bị hại số tiền 500.000 đồng. Xét thấy bị cáo có nơi cư trú ổn định, không cần thiết phải bắt giam bị cáo mà giao bị cáo về địa phương để cải tạo, giáo dục cũng đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.
Luật sư Bùi Xuân N bào chữa cho bị cáo Nguyễn Cường Đ có quan điểm như sau: Thống nhất với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề xuất. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính nuôi con dưới 36 tháng tuổi, vợ là người dân tộc thiểu số chưa có việc làm đã được địa phương xác nhận; qua đó áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Cường Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 03 giờ 20 phút ngày 05/8/2022, tại đường Ngô Xuân Thu thuộc tổ xx, phường HB, quận C, thành phố Đà Nẵng, Nguyễn Cường Đ đã có hành vi lén lút dắt trộm 01 con trâu của ông Võ Văn T trị giá 40.000.000 đồng.
Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2]. Xét nội dung đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Cường Đ, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 09 tháng tù. Mức án như vậy là phù hợp, không nặng. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo bổ sung tài liệu thể hiện bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự; bị hại có văn bản xác nhận bị cáo đã khắc phục hậu quả số tiền 500.000 đồng để mua thuốc cho trâu. Hiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, có 01 con nhỏ (sinh năm 2021), vợ là người dân tộc thiểu số hiện chưa có việc làm. Vì vậy, chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo giáo dục tại địa phương để có điều kiện giúp đỡ gia đình.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cường Đ và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, sửa Bản án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù mà án sơ thẩm đã tuyên nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo Nguyễn Cường Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Cường Đ, sửa Bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Cường Đ: 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm, ngày 03/7/2023.
Tuyên giao bị cáo cho UBND xã L, huyện V, thành phố Đà Nẵng để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Toà án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Cường Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 112/2023/HS-PT
Số hiệu: | 112/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về